![]() |
Về quê nhưng không còn hộ khẩu (hồi chúng tôi đi học chuyển luôn cả hộ khẩu về trường, khi chưa có việc nhà trường chưa cho chuyển đi) nên tôi không được địa phương cấp ruộng canh tác. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, cuộc sống của người dân quê tôi phần lớn là khó khăn. Để nuôi mình, nuôi mẹ, nuôi em đang học đại học, không còn cách nào khác tôi phải chạy hàng cho mẹ ngồi chợ.
Mỗi lần xuống Vinh để lấy các thứ hàng vặt vãnh, vô tình gặp người quen hoặc bạn bè đã có việc làm ổn định nơi thành phố, lòng tôi lại trào lên bao nỗi xót xa. Nỗi tủi cực về thân phận nghèo ám ảnh tôi từng đêm mê ngủ song tôi vẫn cắn răng chịu cực và tìm kiếm niềm vui từ chính nỗi cực nhọc của mình. Mùa hè nóng rát da, mùa đông rét cắt thịt, mỗi ngày tôi đạp xe gần 50km cả đi lẫn về tuyến Khánh Sơn - Vinh - Nam Đàn để vận chuyển hàng.
Trên xe đạp của tôi, ngày ít thì 50kg hàng gồm nước mắm, bánh kẹo, bún khô, ngày nhiều khoảng gấp rưỡi, lễ tết có khi gấp đôi, gấp ba. Mỗi chuyến hàng nếu được mẹ tôi bán hết, tôi cũng chỉ lãi khoảng chục ngàn đồng.
Thường thì tôi đi lấy hàng lúc 4 giờ sáng và chỉ trở về lúc nhà đã đỏ đèn. Buôn bán cực nhọc, xe lại thường xuyên hỏng hóc nên lời lãi chẳng là bao. Mùa hè gió Lào thổi ngược hướng đi, đạp xe hụt cả hơi. Mùa mưa lũ, gồng cả mình để dắt cả xe hàng băng qua khóm ra bến sông. Nhiều khi nước lũ chảy băng băng, chỉ cần vài giây tôi lơi tay là cả người và xe hàng trôi ra biển lớn.
Những ngày đi lấy hàng, tôi thường bỏ cơm nhà. Bữa nào mệt tôi tự cho phép mình ăn một suất cơm bình dân dọc đường với giá 2.500 đồng/suất. Bữa nào khỏe, tôi mang khoai, sắn luộc theo xe hoặc ăn mì tôm cho đỡ tốn tiền. Lắm khi hàng ế tôi lại đạp hơn 40km từ quê xuống nhà máy đường Hưng Châu lấy đường, sau lại ngược về Kim Liên để nhập cho bà chị họ bán.
Hai bao đường, mỗi bao 50kg, người chị họ tính công cho tôi 15.000 đồng- một khoản tiền tuy nhỏ nhưng thật sự có ý nghĩa với tôi hồi bấy giờ. Một năm có 365 ngày thì có đến 355 ngày tôi có mặt tại Vinh để lấy hàng. Mấy năm chạy hàng, người tôi xác xơ như mắm. Nhìn bạn bè đã ổn định công ăn việc làm, tôi lại ngẩn ngơ nuối tiếc những ước mơ đẹp đẽ khi còn ngồi trên ghế giảng đường, để rồi sau đó nghẹn ngào cho nước mắt chảy vào tim.
Hai năm sau, có người anh họ đang công tác tại TP. HCM nhắn tôi vào Nam để xin việc làm, mà sau này tôi mới biết mình bị gạt. Năm đó gia đình anh họ thuyết phục bà mẹ già bán hai căn nhà và vuờn tược ở quê với giá 9 cây vàng để vào Nam. Không có người đưa mẹ và quản lý 4 cây vàng trong quá trình vào Nam, người anh họ đã nhờ tôi đưa giùm bà đi và hứa sẽ xin việc làm cho tôi.
Nhưng không may cho tôi là tôi bị ông anh họ bội ước sau hai tuần tới Sài Gòn. Sợ phiền phức và tốn kém khi có tôi ở trong nhà, người anh họ đã đưa tôi đến gặp một chủ thầu xây dựng ở Gò Vấp để làm hồ, đồng thời xin cho tôi tá túc trong các lán trại trạm tại công trình.
Làm phụ hồ chưa quen, tay chân lóng nga lóng ngóng tôi bị thợ chính chửi như cơm bữa. Nhiều bữa leo lên giàn giáo cao 7-8 mét mà tôi rợn cả người vì thiếu dây an toàn. Do ăn uống kham khổ, sức khỏe tôi giảm sút nghiêm trọng.
Ba tháng sau tôi bắt đầu ho ra máu. Thương tôi, người chủ thầu đưa tôi đến trạm y tế khám bệnh; và cũng tại đây tôi bàng hoàng khi hay tin mình đã mắc bệnh lao. Vợ ông chủ thầu biết chuyện cho tôi hai triệu đồng chữa bệnh.
May mắn là tôi khỏi bệnh, nhưng khi trở lại công trình cũ thì đơn vị thi công đã đi chỗ khác. Tôi thất lạc vợ chồng người chủ thầu tốt bụng nọ và vẫn luôn khắc sâu vào dạ tấm lòng ân nghĩa của họ ngày nào.
Làm phụ hồ không đủ sống, không còn chỗ dựa giữa đất Sài Gòn, ra viện tôi gắng làm hồ thêm bốn tháng, dành dụm tiền mua vé tàu về Bắc và tiếp tục chạy hàng cho mẹ bán buôn. Khoảng hơn một năm sau, bốn người bạn lại rủ tôi cùng vào Nam kiếm việc. Lần này tôi do dự lắm, nhưng được một người chị con bác động viên và cho muợn hai chỉ vàng làm vốn nên tôi quyết định đi.
Còn nhớ khi đưa cho tôi hai chỉ vàng, người chị con bác nói với tôi trong nước mắt: “Đây là sồ tiền chị dành dụm gần nửa đời người mà không cho ai biết. Chú cứ mang vào Nam mà phòng thân. Sau này chú có tương lai nhớ giúp đỡ các con của anh chị. Không thoát khỏi cảnh ruộng đồng thì không ngẩng mặt được chú ơi. Nếu không tìm được việc làm thì chú mang về trả chị và đừng nên cho ai biết việc này...”.
Giấu hai chỉ vàng của chị và 50.000 đồng mẹ cho vào gấu quần để tránh sự lục soát của cán bộ kiểm soát vé trên tàu Thống Nhất (vì chúng tôi đi lậu vé), tôi vào Vũng Tàu theo chúng bạn.
Điệp khúc phụ hồ lại tiếp diễn nhưng lần này đồng hành với khổ cực đã có sự động viên nhau của tình bạn, tình đồng hương. Sau hai tháng làm thuê, chúng tôi đã gặp được một cán bộ làm công tác hải quan cửa khẩu. Khi biết chúng tôi đã tốt nghiệp đại học, không nơi nương tựa, anh ấy đã tạo điều kiện cho chúng tôi đi làm chui (trốn thuế) ở một giàn khoan thăm dò dầu khí.
Từ chỗ cầu bơ cầu bất, anh ấy đã đưa chúng tôi ra làm công tác chống rỉ ở giàn khoan thăm dò H. cho một công ty dầu khí đa quốc gia với mức thu nhập 700 USD/tháng (mỗi tháng tiền lương này chúng tôi phải chia đôi - một nửa thuộc về người dẫn dắt làm các thủ tục lên máy bay, ra giàn, khám sức khỏe, ký hợp đồng- nửa còn lại thuộc về mỗi chúng tôi). Một năm sau, đường dây làm thuê cho các nhà thầu khoan thăm dò tại Vũng Tàu có nguy cơ bị lộ, đồng thời giàn khoan H. đã về nước nên chúng tôi hết việc.
Lúc này chúng tôi cũng đã dành dụm được ít tiền và trở lại điệp khúc xin việc làm. Mỗi đứa rồi cũng chọn được một nghề thích hợp để ổn định cuộc sống. Tôi dành dụm được hơn một cây vàng và mua một miếng đất bằng giấy tay, cưới vợ xong tôi xây căn nhà tạm để ở. Lại nói về nghề nghiệp của mình.
Những đêm trắng nghĩ về tương lai không chợp mắt được, tôi đã hoàn thành một bài dự thi 40 trang tham gia cuộc thi “Vận hội mới và hoài bão của bạn” do Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam và báo Thanh Niên phối hợp tổ chức năm 1994.
Vượt qua 7.288 bài dự thi, tôi và 27 bài dự thi khác đã lọt vào vòng chung khảo, trong đó bài của tôi đạt giải khuyến khích. Được bạn bè và người thân động viên, tôi thi tuyển vào nghề phóng viên và bắt đầu sự nghiệp cầm bút cho một tờ báo địa phương từ đó.
Mười năm cầm bút, tôi đã có khoảng 120 phóng sự và 2.000 bài viết đăng trên các báo như Tuổi Trẻ, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Thanh Niên, Lao Động, An Ninh Thế Giới, Sài Gòn Giải Phóng, Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó có hàng chục phóng sự từng lọt vào vòng chung khảo phóng sự dự thi do báo Lao Động tổ chức hàng năm.
Đó là kết quả của những nỗ lực mà tôi đã phải trả bằng mồ hôi, thậm chí cả nước mắt trong quá trình lăn lộn cùng nghề báo. Gian nan giữa trường đời, tôi đã nghiệm ra rằng, dù trong hoàn cảnh nào mình cũng phải sống có bản lĩnh, gắng dành cho đời chút nghĩa, chút nhân...
Trong một con hẻm sâu hun hút ở thành phố biển Vũng Tàu bây giờ có thêm một tổ ấm hạnh phúc. Tổ ấm ấy là ngôi nhà cấp 4 của chúng tôi - tuy đơn sơ nhưng luôn ăm ắp tiếng cười. Vợ chồng tôi và hai con, một trai - một gái vẫn tự hứa với lòng mình rằng gắng làm được điều tốt nào hay điều ấy. Và từng ngày, từng ngày chúng tôi gắng chắt chiu những điều nhỏ nhoi để góp hạnh phúc cho đời. Với cuộc đời này chúng tôi biết, mình vẫn còn nặng nợ...
AT |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận