24/08/2010 08:14 GMT+7

Đêm thứ nhất (tt)

ARAVIND ADIGA
ARAVIND ADIGA

TTO - Cô ả là thứ béo nhất trong nhà tôi, tương tự như ở mọi nhà khác trong làng này. Đám đàn bà con gái cho ả ăn cỏ tươi suốt cả ngày, cho trâu ăn là công việc chính trong đời họ.

HhZEcxhb.jpgPhóng to

Mọi hi vọng của họ đều tập trung vào độ béo tốt của cô ả, thưa ngài. Nếu cô ả cho đủ sữa, đám đàn bà có thể bán một ít, và họ có thể kiếm thêm chút đỉnh vào cuối ngày.

Ả ta rất béo, da bóng lưỡng, với một sợi dây to bằng cái mậm của một thằng nhóc lòi ra từ chiếc mũi lông lá, nước dãi màu ngọc trai sền sệt lòng thòng từ khóe mép. Ả ta nằm cả ngày trên đống phân vĩ đại của mình. Ả là kẻ ăn trên ngồi trước trong nhà chúng tôi!

Một khi bước vào trong nhà, ngài sẽ thấy đám đàn bà con gái - nếu bất kì ai trong số họ còn sống sau những gì tôi đã gây ra. Đang làm việc trên sân. Các bác các cô các thím, chị em họ và bà nội Kusum. Người chuẩn bị bữa ăn cho con trâu, người sàng thóc, người ngồi xổm vạch da đầu bắt chấy cho người khác. Thỉnh thoảng họ dừng tay, vì đã đến lúc đánh nhau. Tức là ném những chiếc lọ kim loại vào nhau, hay nắm tóc nhau, rồi lại làm hòa bằng cách hôn lên lòng bàn tay và áp lên má nhau. Buổi tối họ ngủ chung, những cặp chân gác lên nhau, giống như một con cuốn chiếu.

Đàn ông con trai ngủ ở một góc khác của căn nhà.

Sáng sớm. Bầy gà trống lên cơn điên khắp đầu làng cuối xóm. Một bàn tay lay tôi dậy… Tôi hất hai chân của anh Kishan ra khỏi bụng, đẩy bàn tay anh họ Pappu ra khỏi tóc, gỡ mình ra khỏi những kẻ đang ngủ như chết.

“Đi nào, Munna.”

Bố tôi gọi vọng vào từ cửa.

Tôi chạy lẽo đẽo sau ông. Chúng tôi đi ra khỏi nhà và tháo ả trâu cái ra khỏi cọc. Chúng tôi sẽ đưa cô ả đi tắm sáng - ở tít cái ao dưới Pháo đài đen.

Pháo đài đen ngự trên đỉnh một ngọn đồi nhìn xuống làng. Những người từng đi nước ngoài nói với tôi rằng pháo đài này đẹp không thua kém những gì ở châu Âu. Người Thổ Nhĩ Kì, hoặc người Afghanistan, hoặc người Anh, hoặc bất kì người ngoại quốc nào từng thống trị Ấn Độ thời đó, hẳn đã xây pháo đài này hàng thế kỉ trước.

(Vì vùng đất Ấn Độ này chưa bao giờ được tự do. Đầu tiên là người Hồi giáo, rồi đến người Anh thống trị chúng tôi. Năm 1947 người Anh ra đi, nhưng chỉ có kẻ dở hơi mới cho rằng chúng tôi đã được tự do khỏi họ).

Nay thì người ngoại quốc đã rời bỏ Pháo đài đen, một bầy khỉ chiếm cứ nó. Chẳng còn ai đi lên đó, chỉ có người chăn dê đưa bầy gia súc của mình đến gặm cỏ.

Khi bình minh đến, cái ao nằm dưới chân pháo đài bừng sáng. Những hòn đá trên tường pháo đài đã lăn xuống đồi, rơi vào ao. Chúng nằm đó, ẩm ướt, nhấp nhô trên mặt nước lấm bùn, như đám hà mã ngái ngủ mà tôi thấy nhiều năm sau đó ở Vườn thú quốc gia tại New Delhi. Hoa sen hoa súng nở đầy ao, mặt nước lấp lánh ánh bạc. Con trâu nước lội bì bõm, nhồm nhoàm nhai lá súng, cái mũi rẽ nước tạo thành hình chữ V. Mặt trời mọc lên trên con trâu, trên bố tôi, trên tôi, và trên toàn thế gian.

Thỉnh thoảng, ngài có tin được không, tôi chợt thấy lòng bâng khuâng về nơi ấy.

Bây giờ, trở lại tấm áp phích.

Nghi phạm được nhìn thấy lần cuối lúc mặc áo sơ mi polyester kẻ xanh, quần polyester cam, giày xăng đan màu hạt dẻ...

“Giày xăng đan màu hạt dẻ” - ối da. Chỉ có cảnh sát mới nghĩ ra chi tiết như thế. Tôi hoàn toàn phủ nhận.

“Áo sơ mi polyester kẻ xanh, quần polyester cam”... À, ừm, tôi cũng muốn chối luôn, nhưng không may là chúng lại đúng. Đó là loại quần áo bắt mắt những kẻ đầy tớ, thưa ngài. Mà tôi thì vẫn còn là đầy tớ vào buổi sáng hôm người ta làm tấm áp phích này. (Đến tối tôi đã được tự do, và mặc bộ đồ khác!)

Bây giờ, có một đoạn trong tấm áp phích làm tôi nổi cáu - để tôi quay lại đấy một chút và sửa nó:

...con trai Vikram Halwai, phu xe...

Ông Vikram Halwai, phu xe - cảm ơn! Bố tôi nghèo, nhưng là người sĩ diện và can đảm. Tôi sẽ không ngồi đây, dưới cái đèn chùm này, nếu không có sự bảo ban của ông.

Vào những buổi chiều sau khi tan học, tôi thường đến quán trà để tìm ông. Quán trà này là tâm điểm của làng chúng tôi; xe buýt từ Gaya dừng ở đó mỗi buổi trưa (không bao giờ muộn quá một hoặc hai giờ), còn cảnh sát đỗ xe jeep ở đấy mỗi khi đến để xử lý ai đó trong làng.

Trước lúc mặt trời lặn, một người đạp xe vòng quanh quán trà ba lần, rung chuông inh ỏi. Một tấm áp phích quảng cáo phim khiêu dâm dán trên giấy bồi buộc phía sau chiếc xe đạp - có ngôi làng truyền thống nào ở Ấn Độ được gọi là hoàn hảo mà không có rạp chiếu phim đen, thưa ngài? Một rạp phim ở bên kia sông chiếu loại phim này mỗi buổi tối, những thước phim dài hai giờ rưỡi với tên gọi như Chàng là đàn ông thực thụ, hay Chúng ta đã mở nhật kí của nàng, hoặc Ông chú đã làm chuyện đó, quay những phụ nữ tóc vàng đến từ Mỹ hay những quý bà cô đơn ở Hong Kong, hoặc là tôi đoán thế. Ngài Gia Bảo, vì thực ra tôi chưa từng nhập bọn với đám thanh niên đi xem loại phim đó!

Những người phu đỗ xe thành hàng bên ngoài quán trà, chờ xe buýt thả khách.

Họ không được phép ngồi lên ghế nhựa dành cho khách; họ phải ngồi bẹp gần phía sau, cái tư thế ngồi xổm gập lưng thường thấy của đầy tớ ở khắp mọi nơi trên đất Ấn Độ. Bố tôi không bao giờ nép mình - tôi nhớ thế. Ông thích đứng, bất kể phải chờ bao lâu hoặc thấy khó chịu thế nào. Tôi hay tìm thấy ông đang ở trần, thường là một mình, uống trà và nghĩ ngợi.

Rồi một tiếng còi xe vang lên.

Lũ lợn và chó hoang gần quán trà chạy tán loạn, mùi bụi, cát, và phân lợn xộc vào quán. Một chiếc xe Ambassador màu trắng đỗ xịch bên ngoài. Bố tôi đặt ly trà xuống, đi ra.

Cửa xe Ambassador mở, một gã đàn ông bước ra, tay cầm sổ ghi chép. Các khách hàng khác của quán trà tiếp tục ăn uống, nhưng bố tôi và những người khác xếp thành hàng một.

Gã đàn ông cầm sổ không phải là Trâu Nước, gã ta chỉ là trợ lý.

Còn một người khác ngồi trong chiếc Ambassador, một người chắc mập với cái đầu hói có ngấn, với nét bình thản trên gương mặt, và một khẩu súng ngắn trên đùi.

Hắn là Trâu Nước.

Trâu Nước là một trong những địa chủ ở Laxmangarh. Còn ba kẻ khác, mỗi kẻ có một biệt danh gắn với tham vọng thầm kín trong lòng.

Cò là một lão béo ú với bộ ria màu mỡ, dày và cong vút ở hai bên mép. Lão sở hữu con sông chảy bên ngoài làng, kiếm chác một phần trong mỗi mẻ cá bắt được từ sông của bất kì ngư dân nào, và thu phí tất cả chủ thuyền đi đường sông đến làng chúng tôi.

Anh của lão tên là Lợn Rừng. Lão này làm chủ mọi thửa ruộng tốt ở Laxmangarh. Nếu muốn làm trên đất đó, ngài phải quỳ rạp dưới chân lão, chạm vào lớp bụi dưới dép lão, và cam tâm chấp nhận mức tiền công mà lão đưa ra. Khi chạy ngang qua đàn bà con gái, xe lão thường dừng lại, cửa kính kéo xuống để lộ cái mặt cười nhăn nhở; hai chiếc răng ở hai bên mũi lão rất dài và cong, tựa cặp nanh nhỏ.

Lão Quạ sở hữu mảnh đất xấu nhất, chính là sườn đồi lởm chởm và khô cằn quanh pháo đài. Lão thu tiền của những người chăn dê đưa dê lên đấy gặm cỏ. Nếu họ không có tiền, lão sẽ thọc cái ấy vào họ từ sau lưng, vì vậy họ gọi lão là Quạ.

Trâu Nước là tên tham lam nhất bọn. Hắn ăn dần ăn mòn những chiếc xe lôi và những con đường. Vì vậy nếu ngài kéo xe, hay sử dụng đường sá, ngài phải cống nạp cho hắn một phần ba những gì ngài kiếm được, không kém một xu mẻ.

Cả bốn tên Súc vật sống trong những dinh thự kín cổng cao tường ở ngoại ô Laxmangarh - khu địa chủ. Chúng có đền riêng trong nhà, giếng và ao riêng, chẳng việc gì phải vào làng, trừ những lần đi kiếm ăn. Thuở trước, lũ con của bộ tứ Súc vật thường đánh xe con dạo quanh thị trấn; bà Kusum còn nhớ những ngày ấy. Nhưng sau khi con trai của Trâu Nước bị nhóm Naxal bắt cóc - có lẽ ngài đã nghe về nhóm này, thưa ngài Gia Bảo, vì đó là những người ưa đi loanh quanh bắn vào những kẻ nhà giàu - bộ tứ Súc vật đã gửi con cái chúng đi chỗ khác, đến Dhanbad hoặc Delhi.

Lũ con đã đi, nhưng bọn Súc vật ở lại và ăn trên ngôi làng, trên mọi thứ mọc lên từ làng, cho đến khi người khác chẳng còn gì để ăn nữa. Vì thế những người còn lại trong làng đã rời bỏ Laxmangarh để kiếm sống. Hằng năm, toàn thể đàn ông trong làng tụ tập thành đám chờ đợi ngoài quán trà. Khi xe buýt đến, họ leo lên - chen chúc bên trong, đu bám rào chắn, trèo lên nóc xe - rồi đi đến Delhi, Calcutta, và Dhanbad để tìm việc.

Một tháng trước mùa mưa, cánh đàn ông trở về từ Dhanbad, Delhi và Calcutta, gầy hơn, đen hơn, nóng nảy hơn, nhưng túi quần rủng rỉnh tiền. Đám đàn bà chờ đợi họ. Các bà nấp sau cửa và ngay khi các ông bước vào, họ nhảy bổ ra, như những con mèo hoang vồ miếng thịt tươi. Có những màn giành giật, gào khóc, la hét. Các chú bác của tôi thường chống cự tìm cách giữ lại ít tiền, nhưng bố tôi thì lần nào cũng bị trấn lột sạch sẽ. “Tôi sống sót được ở thành phố, vậy mà không thoát nổi lũ đàn bà trong nhà”, ông thường nói, rồi ngả người xuống một góc phòng. Đám đàn bà cho ông ăn sau khi đã cho ả trâu no bụng.

Tôi thường đến chỗ ông, chơi đùa quanh ông bằng cách trèo lên lưng và áp bàn tay lên trán ông, qua hai mắt - dọc sống mũi - rồi xuống cổ, đến chỗ lõm ở đáy cổ. Tôi thường nấn ná ngón tay ở đấy - nó vẫn là phần tôi ưa thích nhất trên cơ thể con người.

Cơ thể người giàu cũng giống như một chiếc gối bông thượng hạng, trắng muốt, mềm mại và tinh tươm. Cơ thể chúng tôi thì khác. Cột sống của bố tôi là một sợi dây thừng thắt nút, loại mà đàn bà trong làng dùng để kéo nước giếng; xương đòn gánh cong oằn nhô cao bao quanh cổ ông, như chiếc vòng đeo cổ chó; những vết trầy xước, nứt nẻ và sứt sẹo như những dấu roi nhỏ trên thịt da, chạy xuống ngực và eo ông, luồn qua hông, xuống tận mông. Chuyện đời của một người nghèo được viết lên chính cơ thể người ấy, bằng ngòi bút sắc.

Các chú bác tôi cũng làm việc gãy cả lưng, nhưng ai làm gì họ làm nấy. Mỗi năm, ngay khi mùa mưa vừa chớm, họ lại xách liềm sơn đen ra đồng, van nài địa chủ cho việc gì đó để làm. Rồi họ gieo hạt, làm cỏ, thu hoạch lúa ngô. Bố tôi có thể làm cùng họ; ông có thể làm trên bùn lầy của địa chủ, nhưng ông đã chọn cách khác.

Ông chọn cách chống lại nó.

Tôi đồ rằng ở nước Trung Quốc của ngài không có phu xe - hay ở bất kì quốc gia văn minh nào trên trái đất - ngài phải tận mắt nhìn thấy họ. Xe lôi bị cấm trong những khu hào nhoáng của Delhi, vì chúng có thể khiến khách ngoại quốc trông thấy và há hốc mồm vì kinh ngạc. Hãy đòi đi Old Delhi, hoặc Nizamuddin - ở đấy ngài sẽ thấy phu xe đầy đường - những người đàn ông gầy nhom như que củi, rướn người về trước từ yên xe trong lúc nhấn bàn đạp để kéo cỗ xe chở một núi bị thịt trung lưu - một lão béo ị với bà vợ béo ú và một lô lốc nào túi mua sắm, nào giỏ đi chợ.

Và khi ngài nhìn thấy những ông-que-củi này, hãy nghĩ đến bố tôi.

Bố tôi có thể là phu xe đạp - phận lừa ưa nặng - nhưng ông là người có kế hoạch.

Tôi chính là kế hoạch của ông.

Một ngày nọ, ông nổi cơn thịnh nộ quát tháo đám đàn bà trong nhà. Đó là ngày họ nói với ông rằng tôi đã bỏ học. Ông làm một việc chưa từng dám làm trước đó - quát bà nội Kusum:

“Tôi nói với mẹ bao nhiêu lần rồi: Munna phải biết đọc biết viết!”

Bà Kusum thoáng sững sờ, rồi quát lại:

“Thằng oắt này trốn học chạy về nhà - đừng có mà mắng tao! Nó là đồ hèn nhát, lại thêm thói ăn tạp. Để nó ra quán trà đi làm kiếm tiền quách cho rồi.”

Các cô bác thím và chị em gái họ của tôi vây quanh bà. Tôi bò ra sau lưng bố khi họ mách lại với ông chuyện nhát gan của tôi.

Ngài sẽ thấy khó tin khi một đứa bé ở trong làng lại sợ con thằn lằn. Chuột, rắn, khỉ, cầy tôi đều không ngán. Ngược lại - tôi yêu động vật. Nhưng thằn lằn thì... mỗi khi thấy nó, bất kể nó nhỏ cỡ nào, tôi đều như biến thành con gái. Máu tôi đông cứng.

Có một cái tủ đồ sộ trong lớp học của tôi, cửa tủ lúc nào cũng khép hờ - không ai biết nó nằm đó để dùng vào việc gì. Một buổi sáng nọ, cánh cửa hé mở, một con thằn lằn phóng ra.

ARAVIND ADIGA
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên