01/09/2010 11:22 GMT+7

Đêm thứ hai (tt)

ARAVIND ADIGA
ARAVIND ADIGA

TTO - Giờ thì, có hai chiếc xe trong garage. Một là chiếc Maruti Suzuki hạng xoàng – loại xe nhỏ màu trắng ngài thấy trên khắp Ấn Độ - chiếc kia là Honda City.

RCGCtcLo.jpgPhóng to

Thế này, chiếc Maruti y như một người bạn đơn giản, nhỏ nhắn, một đầy tớ hoàn hảo đối với người tài xế; khoảnh khắc ngài khởi động máy, nó thực hiện chính xác những gì mà người tài xế mong muốn. Honda City là một chiếc xe to, một sinh vật tinh tế hơn, có trí tuệ riêng; nó có thiết bị lái bằng điện, một động cơ tiên tiến, và nó làm những gì nó muốn. Vì lúc ấy tôi quá hồi hộp, nếu lão Cò bảo tôi lái thử chiếc Honda City thì đúng là đời tôi tận số rồi, thưa ngài. Nhưng may mắn đứng về phía tôi.

Họ bảo tôi lái chiếc Maruti Suzuki. Lão Cò và ông Ashok lên ghế phía sau; một người đàn ông nhỏ bé, ngăm đen – ngài Mukesh, một người con trai khác của lão Cò – ngồi vào yên trước và ra lệnh cho tôi. Ông quản gia người Nepal sa sầm nét mặt khi thấy tôi đánh xe ra khỏi cổng – tiến vào thành phố Dhanbad. Họ bắt tôi chở đi loăng quăng trong nửa giờ, rồi bảo tôi quay về.

“Không tồi,” lão Cò nói khi bước ra khỏi xe. “Anh bạn rất cẩn thận và giỏi. Họ của anh bạn là gì ấy nhỉ?”

“Halwai ạ.”

“Halwai…” Lão quay sang người đàn ông da ngăm đen. “Đó là giai cấp nào, trên cùng hay dưới cùng?”

Và tôi biết tương lai mình phụ thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi này. Tôi nên giải thích đôi điều về từ “giai cấp”. Ngay cả người Ấn Độ cũng bối rối về từ này, nhất là người Ấn Độ có học thức trong thành phố. Họ sẽ giải thích vòng vo tam quốc với ngài. Nhưng nó rất đơn giản, thật đấy.

Hãy bắt đầu từ tôi. Đấy: Halwai, tên tôi, có nghĩa là “người làm bánh kẹo”. Đó là giai cấp của tôi – số phận của tôi. Mọi người ở Bóng tối nghe đến tên ấy là biết ngay tất tần tật về tôi. Bởi vậy mà anh Kishan và tôi đi đến đâu là xin được việc làm ở cửa hàng bánh kẹo đến đó. Chủ quán nghĩ, "À chúng thuộc giai cấp Halwai, làm bánh pha trà đã có sẵn trong máu chúng".

Nhưng nếu chúng tôi thuộc giai cấp Halwai thì tại sao bố tôi không làm bánh kẹo mà lại đi làm phu xe? Tại sao tôi trải qua những ngày tháng đập than và lau bàn, thay vì ăn gulab jamuns và bánh ngọt vào lúc mình muốn, tại nơi mình chọn? Tại sao tôi lại gầy tong, đen nhẻm và láu cá chứ không tròn trịa, bơ sữa và sáng láng như một đứa bé được nuôi lớn bằng bánh kẹo?

Chuyện là, đất nước này, trong những tháng ngày huy hoàng nhất, khi là dân tộc giàu nhất trái đất, từng giống như một cái vườn thú. Một vườn thú sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng. Ai ở yên chỗ nấy, người người hạnh phúc. Người thợ kim hoàn ở đây. Người chăn bò ở đây. Địa chủ ở kia. Người được gọi là Halwai thì làm bánh kẹo. Người được gọi là gã chăn bò thì chăn bò. Những kẻ tiện dân thì hót phân. Địa chủ rất tử tế với nông nô của mình. Đàn bà trùm đầu bằng khăn mạng và nhìn xuống đất khi nói chuyện với đàn ông lạ.

Rồi sau đó, nhờ tất cả những chính trị gia ở Delhi, vào ngày mười lăm tháng tám năm 1947 – ngày người Anh ra đi – những cái lồng được xổ tung; những con vật tấn công và xâu xé lẫn nhau, luật rừng thay thế luật vườn thú. Những kẻ hung ác nhất, háu đói nhất, đã ăn tươi nuốt sống kẻ khác, và trở thành những kẻ bụng to. Không cần biết là đàn bà, tín đồ Hồi giáo hay tiện dân: bất kì ai có cái bụng to đều lên hương.

Ông cụ thân sinh của bố tôi hẳn là một Halwai chân chính, một người làm bánh kẹo, nhưng khi ông thừa kế cửa hàng bánh kẹo, một thành viên thuộc tầng lớp khác hẳn đã cuỗm nó từ tay ông với sự trợ giúp của cảnh sát. Bố tôi không có cái bụng to để chiến đấu lại. Vì thế mà ông đã rơi một mạch xuống bùn đen, xuống tầng lớp của một phu xe. Đó là lí do vì sao tôi đã đánh lừa vận mệnh của mình khi trở nên béo tốt, với làn da bơ sữa và khuôn mặt tươi tỉnh, sáng láng.

Tóm lại – ngày xưa ở Ấn Độ từng có một nghìn giai cấp và số phận. Ngày nay, chỉ có hai giai cấp: Những gã bụng to, và Những gã bụng nhỏ. Và chỉ có hai số phận: ăn - hoặc bị ăn.

Bấy giờ, người đàn ông ngăm đen - ngài Mukesh, anh của ông Ashok - không biết câu trả lời - tôi đã nói với ngài rằng người thành phố chẳng biết tí gì về hệ thống giai cấp, vì vậy lão Cò quay sang hỏi thẳng tôi.

“Cậu đến từ giai cấp trên cùng hay dưới cùng, cậu bé?”

Tôi không biết ông ấy muốn tôi nói gì, nên tôi đắn đo cả hai phương án trả lời – phương án nào có lẽ cũng tốt cả - rồi đáp, “Dưới cùng ạ.”

Quay sang ngài Mukesh, lão già nói, “Tất cả nhân viên của chúng ta đều là giai cấp trên cùng. Có một hai đứa thuộc giai cấp dưới cùng làm cho chúng ta thì cũng chả sao.”

Ngài Mukesh nhìn tôi dò xét. Ông ta không rành lệ làng, nhưng lại có hết sự ranh mãnh của các địa chủ.

“Mày có uống rượu không?”

“Không ạ. Giai cấp của con không bao giờ uống rượu.”

“Halwai…” Ông Ashok cười thích thú. “Cậu làm bánh kẹo phải không? Những lúc không lái xe cậu nấu ăn cho chúng ta được không?”

“Dĩ nhiên rồi ạ. Con nấu ăn giỏi lắm. Làm bánh kẹo rất ngon. Gulab jamun, laddoo, bất cứ món gì ông thích,” tôi đáp. “Con làm việc ở quán trà nhiều năm rồi ạ.”

Ông Ashok có vẻ hứng thú với câu chuyện này. “Chỉ có ở Ấn Độ,” ông ấy nói. “Tài xế của ta cũng có thể làm bánh kẹo cho ta. Chỉ có ở Ấn Độ. Bắt đầu từ ngày mai.”

“Không cần gấp thế,” Ngài Mukesh nói. “Trước tiên phải hỏi han gia cảnh nó. Nhà có bao nhiêu người, sống ở đâu, mọi thứ. Còn một chuyện nữa: mày muốn bao nhiêu?”

Một cuộc kiểm tra khác.

“Tuyệt đối không cần gì, thưa ông. Ông như bố mẹ con, sao con dám đòi hỏi bố mẹ phải trả tiền cho mình?”

“Tám trăm rupee một tháng,” ông ta nói.

“Không, thưa ông, làm ơn - thế thì nhiều quá. Xin cho con bằng nửa ấy, thế là đủ. Hơn cả đủ rồi ạ.”

“Nếu làm được ở đây hơn hai tháng thì sẽ tăng lên một nghìn năm trăm.”

Làm ra vẻ đau khổ, tôi chấp nhận số tiền ấy. Ngài Mukesh vẫn chưa thuyết phục lắm về tôi. Ông ta nhìn tôi từ trên xuống dưới rồi nói, “Nó còn nhỏ. Ta có cần người lớn hơn không?”

Lão Cò lắc đầu. “Bắt lúc còn nhỏ thì mới giữ được chúng cả đời. Nếu thuê tài xế bốn mươi mấy tuổi thì anh được bao nhiêu, hai mươi năm phục vụ là cùng, rồi sau đó mắt mũi chúng kèm nhèm hết cả. Anh bạn này xài được ba mươi, ba mươi lăm năm. Cái răng cái tóc của nó đều tốt cả, tướng tá lại ngon lành”. Lão ngậm nước cốt trầu đầy ngập trong miệng, rồi quay qua, nhổ ra một bãi đỏ ối. Sau đó lão bảo tôi hai ngày nữa quay lại.

Lão hẳn đã gọi cho đàn em ở Laxmangarh. Tay đàn em đó hẳn đã đến nói chuyện với bà nội Kusum, và dò la hàng xóm về chúng tôi, rồi báo cáo lại: “Nó có gia đình đàng hoàng. Nhà nó chẳng gây ra chuyện gì. Bố chết mấy năm trước vì bệnh lao. Ông ta là phu xe. Anh em cũng đang ở Dhanbad, làm công trong quán trà. Không có tiền án ủng hộ Naxal hay các tay khủng bố khác. Và chúng không di chuyển: chúng ta biết chính xác chúng ở đâu”.

Thông tin cuối cùng rất quan trọng. Họ cần biết gia đình tôi ở đâu vào mọi lúc.

Tôi đã kể cho ngài chưa ấy nhỉ, về cái việc mà gã Trâu Nước làm với đầy tớ trong nhà. Người này có nhiệm vụ trông chừng đứa con trai sơ sinh của y, nhưng đứa bé đã bị Naxal bắt cóc, đánh đập và giết chết. Người đầy tớ đó thuộc giai cấp chúng tôi, thưa ngài. Một người Halwai. Tôi đã nhìn thấy ông một hai lần khi tôi còn nhỏ. Người đầy tớ này không liên quan gì đến vụ bắt cóc; nhưng Trâu Nước không tin ông ta và thuê bốn tay súng tra tấn ông ta. Rồi bọn chúng bắn xuyên qua đầu ông ta. Như thế là sòng phẳng. Tôi cũng sẽ làm thế với người nào để cho con trai của tôi bị bắt cóc.

Nhưng rồi, vì Trâu Nước tin chắc rằng người đầy tớ đó đã chủ tâm để đứa bé bị bắt cóc, vì tiền, cho nên y đã tìm đến nhà của người đầy tớ này. Một người anh trai ăn đòn trong lúc đang làm ruộng; bị đánh đến chết ở đó. Vợ của người anh trai bị ba tên đàn ông lấy mạng. Một người em gái, vẫn chưa lấy chồng, cũng bị phăng teo. Sau đó căn nhà của họ bị bốn tên tay sai bao vây rồi châm lửa đốt.

Vậy, có ai lại muốn điều này xảy ra với gia đình mình, thưa ngài? Kẻ quái vật mất nhân tính nào có thể đẩy bà nội, anh trai, cô, bác, thím và cháu trai của mình đến chỗ chết? Lão Cò và các con có thể tin cậy vào sự trung thành của tôi. Khi tôi trở lại, ông quản gia người Nepal mở cổng không nói một lời. Giờ thì tôi đã vào được bên trong trang viên.

Xét về việc làm chủ thì ông Ashok, ngài Mukesh và lão Cò tốt hơn tôi tưởng. Trong nhà luôn có đủ thức ăn cho kẻ hầu người hạ. Ngày chủ nhật còn có món đặc biệt, cơm trộn thịt gà rút xương. Trước đó tôi chưa bao giờ ăn một món gà tử tế; nó khiến ta có cảm giác như mình là ông hoàng, ăn thịt gà hết chủ nhật này đến chủ nhật khác, ăn xong thì liếm mút từng ngón tay.

Tôi có một phòng ngủ có mái che. Thực ra, tôi phải ở chung phòng với một tài xế khác, một người mặt mày dữ tợn tên là Ram Persad, hắn có một chiếc giường to đẹp, còn tôi phải ngủ trên sàn nhà - dù sao thì một căn phòng có mái che vẫn là một căn phòng có mái che, tốt hơn nhiều so với ngủ ngoài đường, như anh Kishan và tôi vẫn ngủ lăn lóc suốt thời gian ở Dhanbad. Trên hết, tôi có một thứ mà những kẻ lớn lên ở khu Bóng tối chúng tôi quý hơn tất cả. Một bộ đồng phục. Một bộ đồng phục kaki!

Ngày hôm sau tôi đi đến ngân hàng – tòa nhà mà cửa làm toàn bằng kính ấy. Tôi thấy bóng mình trong gương – tất cả đều là kaki. Tôi đi tới đi lui trước ngân hàng cả chục lần, chỉ để trầm trồ trước bản thân mình. Giá mà họ cho tôi một cái còi bạc, đời tôi xem như được lên thiên đàng!

Anh Kishan đến thăm tôi mỗi tháng một lần. Bà nội Kusum đã quyết định cho tôi hằng tháng được giữ lại chín mươi rupee: phần còn lại đi thẳng đến Kishan – người sẽ gửi thẳng nó về cho bà ở quê nhà. Hằng tháng tôi đưa tiền cho anh qua những song sắt màu đen của cánh cổng sau, và chúng tôi thường nói chuyện được vài phút trước khi ông quản gia người Nepal hét toáng lên, “Thế đủ rồi – thằng nhóc còn chuyện phải làm!”.

Công việc của một tài xế số hai khá đơn giản. Nếu tài xế số một, Ram Persad, bận chở ông chủ đi quanh thị xã bằng chiếc Honda City, và ai đó trong nhà muốn đi ra chợ, hoặc đến mỏ than, hoặc đến ga tàu hỏa, thì tôi sẽ ngồi vào chiếc Maruti Suzuki, chở họ đến đó. Bằng không tôi phải có mặt ở nhà và luôn tay luôn chân làm việc.

Bây giờ, tôi nói họ xem tôi như “tài xế”. Tôi không biết chính xác các ngài tổ chức kẻ hầu người hạ ở Trung Quốc thế nào. Nhưng ở Ấn Độ - hay, ít nhất là, ở Bóng tối - người giàu không có tài xế, đầu bếp, thợ cắt tóc và thợ may. Họ chỉ đơn giản có toàn đầy tớ.

Ý tôi là bất cứ khi nào không lái xe thì tôi phải quét sân, pha trà, lau mạng nhện bằng chổi cán dài, hoặc đuổi bò ra khỏi trang viên. Có một việc mà tôi không được phép làm, đó là chạm vào chiếc Honda City: chỉ có Ram Persad được quyền lái và lau chùi nó. Vào buổi tối tôi thường quan sát hắn lau bề ngoài bóng loáng của chiếc xe với vải mềm. Lòng tôi sôi lên vì ghen tị.

Tôi có thể nhìn thấy, ngay chỉ từ bên ngoài, rằng nó là một chiếc xe đẹp, hiện đại, với đầy đủ tiện nghi: dàn loa, máy điều hòa nhiệt độ, ghế bọc da bóng loáng đẹp đẽ, và một ống nhổ bằng nhôm không gỉ ở phía sau. Lái một chiếc xe đẹp như thế hẳn là sướng như tiên. Tôi thì chỉ có chiếc Maruti Suzuki cũ kĩ cà tàng.

Một buổi tối, khi tôi đang quan sát, ông Ashok đến và ngó nghiêng một lượt quanh chiếc xe. Tôi phát hiện ra ông ấy là một người rất tò mò.

“Cái đó để làm gì? Cái vật bóng loáng ở phía sau ấy?”

“Ống nhổ, thưa ngài.”

“Cái gì?”

Ram Persad giải thích. Ống nhổ này dành cho lão Cò, người thường xuyên ăn trầu. Nếu lão nhổ trầu ra ngoài cửa xe, trầu có thể dính vào thành xe, vì thế lão nhổ xuống gần chân mình, vào cái ống nhổ, được tài xế rửa ráy sạch sẽ sau mỗi chuyến đi.

“Kinh quá”, ông Ashok nói.

Ông đang hỏi về một thứ khác thì Roshan, con trai ngài Mukesh chạy đến chỗ chúng tôi với một cái gậy bằng nhựa và quả bóng trong tay. Ram Persad búng tay ra hiệu cho tôi.

(Chơi cricket bằng bất kì loại gậy nào với chủ nhà đang hăng máu – rồi để chủ thắng một cách vẻ vang – là một trong những nhiệm vụ được đặt ra cho tài xế số hai). Ông Ashok cũng tham gia. Ông làm người giữ cọc, còn tôi ném bóng cật lực cho thằng oắt con.

“Ta là Azharuddin, đội trưởng Ấn Độ!”, thằng lỏi gào lên mỗi khi nó đánh trúng cú sáu điểm hoặc bốn điểm.

“Xưng là Gavaskar chứ. Azharuddin là người Hồi giáo.”

Đấy là lão Cò. Lão đã vào sân xem trận đấu.

Ông Ashok đáp, “Bố này, nói gì mà dớ dẩn thế không biết! Ấn Độ giáo với chả Hồi giáo, có gì khác nhau đâu nào?”

“Ối giời, đám trai trẻ các anh cứ là suy nghĩ cấp tiến!” lão Cò nói. Lão đặt tay lên tôi. “Ông phải cuỗm anh bạn tài xế này một chút, Roshan ạ - ông xin lỗi, ông sẽ trả lại cho cháu trong một giờ nữa, nhé?”

Lão Cò có một cách sử dụng tài xế số hai rất đặc biệt. Chân lão yếu, gân guốc xanh xao cả lên, vì thế bác sĩ bảo lão phải ngồi ngoài sân mỗi tối ngâm chân trong nước ấm và có người hầu xoa bóp. Tôi phải bắc ấm đun nước, bê nó vào sân, nhấc từng cái chân của lão già nhúng vào nước nóng rồi nhẹ nhàng xoa bóp hai chân; khi tôi làm thế, lão thường nhắm mắt lại rên rỉ.

Sau nửa giờ, lão sẽ lên tiếng, “Nước lạnh rồi,” và tôi phải nhấc chân lão ra khỏi xô, từng chân một, rồi bê chiếc xô vào nhà vệ sinh. Nước trong xô đen ngòm – những cọng lông chết và mẩu da nổi lềnh bềnh. Tôi phải châm nước nóng mới vào xô, rồi bê nó trở lại.

Trong lúc tôi xoa bóp, hai người con trai của lão kéo ghế ngồi cạnh bố để đàm đạo. Ram Persad thường đem ra một chai đầy chất lỏng màu vàng, rót vào ba chiếc ly, cho đá vào, rồi dâng mỗi người một ly. Các con trai đợi bố hớp ngụm đầu tiên và nói, “A… whisky. Làm sao ta sống nổi ở cái xứ này nếu không có nó,” rồi cuộc nhàn đàm bắt đầu. Họ càng nói nhiều, tôi càng xoa bóp nhanh. Họ nói về chính trị, than đá, và về đất nước của ngài - Trung Quốc. Vì lý do nào đó những chủ đề này - chính trị, than đá, Trung Quốc - có liên hệ đến gia tài của lão Cò; và tôi lờ mờ nhận ra vận mệnh của mình, vì tôi bấy giờ đã là một thành viên của gia đình này, cũng có liên hệ mật thiết đến ba chủ đề ấy.

Cuộc nhàn đàm về than đá và Trung Quốc quyện lẫn trong mùi rượu whisky từ những chiếc ly, mùi mồ hôi khăm khẳm túa ra từ bàn chân lão Cò hòa vào nước ấm, lớp da bong tróc của lão, và những cú chạm nhẹ vào lưng tôi khi ông Ashok hoặc Mangut đung đưa đôi chân mang giày xăng đan. Tôi tiếp nhận tất cả - đó là điều tuyệt vời về các doanh nhân. Chúng tôi giống như bọt biển - chúng tôi hấp thụ và lớn lên.

Một cú đánh trời giáng vỗ lên đầu tôi.

Tôi ngước lên trông thấy lão Cò, vẫn đang giơ bàn tay trên đầu tôi, nhìn tôi trừng trừng.

“Biết cái đấy là gì không?”

“Vâng, thưa ông,” tôi đáp – với một nụ cười toe toét trên mặt.

“Tốt.”

Một phút sau lão lại đánh lên đầu tôi.

“Bố bảo nó đấy là gì đi. Con nghĩ nó không biết đâu. Anh bạn, anh bóp mạnh quá đấy. Anh phấn khích quá. Bố tôi phát cáu lên kìa. Nhẹ tay thôi”.

“Vâng, thưa ông.”

“Có cần phải đánh đám tôi tớ không, bố?”

“Đây không phải là nước Mỹ, con trai ạ. Đừng hỏi những câu như thế”.

“Thế sao con không thể hỏi?”

“Chúng mong chờ được ta đánh, Ashok ạ. Nhớ đấy - có thế chúng mới kính trọng chúng ta.”

Bà Pinky không bao giờ tham gia những cuộc đàm đạo thế này. Trừ lúc đeo kính mát chơi cầu lông với Ram Persad, bà không bao giờ rời phòng. Tôi lấy làm lạ chẳng biết có chuyện gì với bà - cãi nhau với chồng chăng? Hay là ông ấy không làm tốt chuyện ấy trên giường với bà?

Khi lão Cò nói, “Nước lạnh rồi,” lần thứ hai và nhấc chân ra khỏi xô, việc của tôi đã xong.

Tôi dội nước lạnh xuống bồn rửa.

Tôi rửa tay trong mười phút, lau khô, rồi lại rửa, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Dù có rửa tay bao nhiêu lần sau khi xoa bóp chân người khác, cái mùi của lớp da già nua, bong tróc sẽ bám trên da ta suốt cả ngày.

Chỉ có một hoạt động mà đầy tớ số một và đầy tớ số hai cùng nhau làm. Ít nhất một tuần một lần, vào khoảng sáu giờ, Ram Persad và tôi đi khỏi nhà xuống con đường chính, đến cửa hiệu với tấm bảng đề chữ:

Hiệu rượu JackpotCó bán rượu ngoại làm tại Ấn

Tôi nên giải thích với ngài, thưa ngài Gia Bảo, rằng ở đất nước chúng tôi có hai loại đàn ông: đàn ông rượu “Ấn” và đàn ông rượu “Anh”. Rượu “Ấn” dành cho đám trai làng như tôi - rượu mạnh, rượu đế, rượu tăm. Rượu “Anh”, về thông thường, dành cho người giàu. Rum, whisky, bia, gin - bất cứ thứ gì người Anh bỏ lại. (Có rượu “Trung” không, ngài thủ tướng? Tôi rất sẵn lòng nhấp một ngụm).

Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của tài xế số một là đến Jackpot mỗi tuần một lần để mua một chai rượu whisky thuộc vào loại đắt nhất cho bố con lão Cò. Theo yêu cầu đối với đầy tớ, dù xin đừng hỏi tôi tại sao, tài xế số hai phải đi cùng hắn ta trong những chuyến thế này. Tôi đoán mình có nhiệm vụ canh chừng để hắn không cao chạy xa bay với chai rượu.

Những chai rượu đủ màu sắc với nhiều kích cỡ khác nhau bày biện trên kệ hàng ở Jackpot, hai thằng choai choai giành giật nhau sau quầy tính tiền để đáp ứng yêu cầu của những ông khách đang quát tháo ầm ĩ. Trên bức tường trắng bên hông cửa hiệu là hàng trăm nhãn rượu viết bằng sơn đỏ nhỏ giọt, chia thành năm nhóm, BIA, RUM, WHISKY, GIN và VODKA.

ARAVIND ADIGA
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên