1. Nếu 31-12-2008 hết hạn HÐLÐ, từ 1-1-2009 bạn tôi vẫn làm việc bình thường nhưng công ty không ký tiếp HÐLÐ mới bằng văn bản thì công ty có vi phạm pháp luật không? Quyền lợi của bạn tôi nếu tiếp tục làm việc tại công ty?
2. Nếu đến 31-12-2008 hết hạn HÐLÐ và ngày 1-1-2009 bạn tôi nghỉ việc mà không làm đơn nghỉ việc báo trước cho công ty thì có bị xem là bỏ việc? Trường hợp này có được công ty thanh toán trợ cấp nghỉ việc không?
3. Nếu đã thực hiện 60% thời hạn HÐLÐ mà bạn tôi nghỉ việc không báo trước với công ty thì có được thanh toán trợ cấp nghỉ việc không? Bạn tôi có phải bồi thường cho công ty không? Bồi thường như thế nào?
(Bạn đọc)
Do câu hỏi của bạn đề cập đến nhiều vấn đề nên chúng tôi giải đáp từng vấn đề như sau:
1. Khoản 3 Ðiều 27 Bộ luật lao động (BLLÐ) đã được sửa đổi, bổ sung quy định như sau: Khi HÐLÐ hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày HÐLÐ hết hạn, hai bên phải ký kết HÐLÐ mới. Trong thời gian chưa ký được HÐLÐ mới, hai bên phải tuân theo HÐLÐ đã giao kết.
Khi hết thời hạn 30 ngày mà không ký HÐLÐ mới, HÐLÐ đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Trường hợp ký HÐLÐ mới là hợp đồng xác định thời hạn thì chỉ được ký thêm một thời hạn không quá 36 tháng, sau đó nếu người lao động tiếp tục làm việc thì ký HÐLÐ không xác định thời hạn; nếu không ký thì đương nhiên trở thành HÐLÐ không xác định thời hạn.
Theo quy định trên, công ty bạn chỉ được ký HÐLÐ xác định thời hạn (thời điểm kết thúc trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng) với người lao động tối đa là hai hợp đồng. Khi hết hạn HÐLÐ thứ hai trở đi thì phải ký không xác định thời hạn. Khi hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày HÐLÐ hết hạn, nếu người lao động tiếp tục làm việc mà công ty vẫn chưa ký HÐLÐ mới với người lao động thì HÐLÐ đã giao kết trước đó sẽ trở thành HÐLÐ không xác định thời hạn. Quyền và lợi ích của người lao động khi đó sẽ được giải quyết trên cơ sở HÐLÐ không xác định thời hạn.
2. Theo quy định tại Khoản 1 Ðiều 36 BLLÐ đã được sửa đổi, bổ sung thì HÐLÐ có thể chấm dứt khi hết hạn hợp đồng. Do đó, khi HÐLÐ giữa bạn và công ty hết hạn mà bạn không muốn tiếp tục làm việc thì bạn không có trách nhiệm phải báo trước cho công ty.
Ðối với vấn đề trợ cấp thôi việc, theo quy định tại Khoản 1 Ðiều 42 Bộ luật lao động, thì khi chấm dứt HÐLÐ đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có). Như vậy, nếu bạn có thời gian làm việc thường xuyên cho công ty từ đủ 12 tháng trở lên thì công ty có trách nhiệm phải trả trợ cấp thôi việc cho bạn, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có).
3. Khoản 1 Ðiều 37 BLLÐ đã được sửa đổi, bổ sung quy định như sau: Người lao động làm việc theo HÐLÐ xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng, HÐLÐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
(a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng;
(b) Không được trả công đầy đủ hoặc trả công không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng;
(c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;
(d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;
(đ) Ðược bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
(e) Người lao động nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc;
(g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị ba tháng liền đối với người làm việc theo HÐLÐ xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng, và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HÐLÐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Ðiều 37 có quy định khi đơn phương chấm dứt HÐLÐ theo quy định tại khoản 1 Ðiều 37, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
(a) Ðối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g: ít nhất ba ngày;
(b) Ðối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ: ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; ít nhất ba ngày nếu là hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng;
(c) Ðối với trường hợp quy định tại điểm e: thời hạn mà người lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tùy thuộc vào thời hạn do thầy thuốc chỉ định.
Do đó, trong trường hợp bạn đơn phương chấm dứt HÐLÐ mà không đúng lý do quy định tại khoản 1 hoặc không báo trước theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Ðiều 37 BLLÐ thì bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Ngoài ra, Khoản 2 và Khoản 3 Ðiều 41 BLLĐ quy định như sau:
1. Trường hợp người lao động chấm dứt HÐLÐ trái pháp luật là chấm dứt không đúng lý do quy định quy định tại Khoản 1 hoặc không báo trước quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Ðiều 37 Bộ luật Lao động thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).
2. Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt HÐLÐ trái pháp luật thì phải bồi thường chi phí đào tạo theo quy định của Chính phủ.
Theo quy định nêu trên, khi bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không đúng lý do hoặc vi phạm thời hạn báo trước thì ngoài việc không được nhận trợ cấp thôi việc, bạn còn phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có). Ngoài ra, bạn còn phải bồi thường chi phí đào tạo trong trường hợp HÐLÐ có quy định.
* Tôi làm công ty TNHH, ký hợp đồng lao động (HĐLÐ) đến 31-12-2008 là hết hạn (HÐLÐ 12 tháng). Ngày 16-11-2008, tôi nộp đơn xin nghỉ việc kể từ 20-11-2008, lúc này tôi đã có thai 7 tháng, công ty đã giải quyết cho tôi nghỉ theo đơn.
Đơn xin nghỉ việc của tôi có xem là vi phạm thời hạn báo trước (báo trước 30 ngày đối với HÐLÐ xác định thời hạn) không? Khi tôi nghỉ, công ty không chi trả trợ cấp nghỉ việc cho tôi là đúng hay sai?
(Bạn đọc)
- Căn cứ vào Khoản 3 Ðiều 36 Bộ luật lao động (BLLÐ) đã được sửa đổi, bổ sung thì HÐLÐ có thể chấm dứt trong trường hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng. Theo bạn trình bày, mặc dù bạn nộp đơn xin nghỉ việc ngày 16-11-2008 xin nghỉ từ ngày 20-11-2008 là có vi phạm về thời hạn báo trước, tuy nhiên, khi bạn nộp đơn đã được công ty đồng ý chấp nhận giải quyết cho bạn nghỉ theo đơn nên được xem là bạn và công ty đã thỏa thuận chấm dứt HÐLÐ trước thời hạn. Do vậy, việc bạn nghỉ việc không được xem là vi phạm thời hạn báo trước.
Về vấn đề trợ cấp thôi việc, Ðiều 42 BLLÐ cũng đã quy định như sau: Khi chấm dứt HÐLÐ đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có.
Theo đó, nếu bạn có thời gian làm việc thường xuyên cho công ty từ đủ 12 tháng trở lên thì công ty phải trả trợ cấp thôi việc cho bạn, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương (nếu có).
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận