Kỷ niệm 100 năm ngày sinh học giả Đào Duy Anh (25-5-1904 - 25-5-2004)
![]() |
Bị cuốn hút bởi nội dung uyên bác và cách giảng dạy điềm đạm, cẩn trọng của thầy, một vài người chúng tôi hễ có dịp là lén tranh thủ dự nghe các buổi giảng dạy khác của thầy cho các sinh viên khoa sử.
Gần 50 năm đã qua đi, chúng tôi vẫn nhớ mãi thầy, cũng như không thể quên được những người cha tinh thần của mình: các giáo sư Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Giàu... những học giả khả kính này luôn luôn là gương sáng cho thế hệ chúng tôi về ý chí, tinh thần phấn đấu lặng lẽ và quyết liệt để hoàn thiện nhân cách cũng như tài năng.
Có người bảo quê thầy ở Thanh Hóa, hóa ra không phải. Gần thầy mới biết được nguyên quán của thầy là Hà Đông, làng Khúc Thủy, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội). Do nghèo và muốn đổi đời nên gia đình chuyển vào Thanh Hóa từ đời ông nội. Dù gia cảnh không khấm khá hơn bao nhiêu nhưng ông bà thân sinh của thầy vẫn hết sức tằn tiện để có tiền cho con ăn học. Sáu năm học chữ Hán, 11 tuổi mới vào trường tiểu học, nhưng 19 tuổi thầy đã tốt nghiệp Trường Quốc học Huế.
![]() |
Học giả Đào Duy Anh và bà Trần Thị Như Mân, vợ ông |
Louis Marty, quan chức thực dân khét tiếng tàn ác của Pháp, đã ra tay đàn áp. Ông cùng người vợ chưa cưới - bà Trần Thị Như Mân - bị bắt giam trong hơn một năm. Cuối năm 1930 hai người cùng được phóng thích với cái án treo ba năm tù. Từ đấy, trong không khí khủng bố ngột ngạt của chính quyền thuộc địa, Đào Duy Anh chuyển hẳn sang hoạt động văn hóa với một tâm niệm: góp phần nâng cao dân trí.
|
Từ đó đến lúc qua đời (1-4-1988), trong suốt 58 năm, Đào Duy Anh say sưa, miệt mài lao động học thuật và đóng góp xuất sắc trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân tộc, trong đó nổi trội hơn cả là các bộ môn từ điển, lịch sử và dịch thuật.
Khi cùng các ông Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Hoài Thanh... nhận nhiệm vụ giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội (1946), ông chuyên tâm nhiều hơn đến lĩnh vực lịch sử. Thật ra trước đó Đào Duy Anh đã có những công trình nghiên cứu đặc sắc về lĩnh vực này. Đó là Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Trung Hoa sử cương (1944) nhưng chỉ từ đây ông mới dành nhiều thời gian, công sức vào chính sử.
Ba công trình quan trọng nhất của ông: bộ Cổ sử Việt Nam, 1955, tám chương, non 400 trang), bộ Lịch sử Việt Nam (1957, 56 chương, hơn 900 trang) và bộ Đất nước Việt Nam qua các đời (1964, 15 chương, hơn 500 trang). Những công trình này không chỉ được giới trí thức trong nước hoan nghênh mà nhiều học giả thế giới cũng đánh giá rất cao. Viện Đông phương học (thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô) và Viện Khoa học Trung Quốc đã cho dịch và xuất bản rất sớm.
Một lĩnh vực khác ông cũng đã có những đóng góp thầm lặng nhưng rất có ý nghĩa: dịch thuật và hiệu đính. Chỉ tính trong sáu năm, từ đầu năm 1958 đến lúc về hưu (1964), khi thôi giữ chức chủ nhiệm Khoa sử ở Đại học Tổng hợp Hà Nội vì có liên quan vào vụ Nhân Văn giai phẩm và chuyển về công tác ở Viện Sử học, ông đã tham gia dịch và chịu trách nhiệm hiệu đính những bản dịch do các cụ nho học đã thực hiện cùng hàng loạt những tài liệu sử học rất quí của người xưa: Lam Sơn thực lục (của Nguyễn Trãi), Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú), Phủ biên tạp lục (của Lê Quí Đôn), Hổ trướng khu cơ (Đào Duy Từ), Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức)... tất cả trên dưới 10.000 trang in.
Trong hồi ký của mình, ông “rất vui lòng đã có dịp phục vụ công việc nghiên cứu sử học một cách thiết thực như thế, ở trong không khí lặng lẽ của công việc âm thầm, xa hẳn cảnh náo nhiệt của các cuộc thảo luận bút chiến” (Sđd - trang 145), dù với ông “đó chỉ là công việc tay trái”.
Có lẽ cũng không cần nói thêm dài dòng về các công trình khác của ông thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội. Chẳng hạn về triết học như Khổng giáo phê bình tiểu luận (1943), về ngôn ngữ như Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến (1975), về văn học như Thảo luận về Truyện Kiều (1958). Và tác phẩm cuối cùng, cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (khởi thảo 1980, xuất bản 1988) của ông khiến nhiều thế hệ người đọc xúc động về giọng kể từ tốn, điềm đạm cũng như về thái độ trung thực, đúng đắn, bình tĩnh.
Chúng ta hiểu được những chặng đường đời cũng như con đường học thuật của ông, mới rõ vì sao ông có được những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho văn hóa dân tộc như đã kể trên. Trước hết đó là vì cái chí, vì động cơ trong sáng cao đẹp mà ông sớm xác lập từ thuở thanh niên và kiên trì theo đuổi trong suốt hơn 60 năm cầm bút. Vì vậy đường đời có lúc thuận, lúc nghịch, khi bình yên, khi sóng gió nhưng ông vẫn luôn giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, thực hiện bằng được kế hoạch học tập và nghiên cứu của mình.
Sau nữa, ông đã nêu gương sáng về tinh thần, thái độ lao động học thuật. Không nơi nào nghe nói có sách quí mà ông không tìm đến, không có địa danh nào liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu mà ông không gắng khảo sát thực địa bằng được, dù phải đạp hàng trăm cây số bằng chiếc xe đạp cũ trên những con đường tiêu thổ kháng chiến thời chống Pháp. Vì vậy khi dịch Phủ biên tạp lục, ông có tới tám bản chép tay, kể cả bản của thư viện Bảo Đại ở Huế, bản của Viện Viễn Đông bác cổ (Hà Nội) và bản của kho sách dòng họ Cao Xuân (Nghệ An). Có dịp đến Quảng Ngãi, ông đến những nơi có liên quan đến “chàng Lía”. Vào Hội An ông xác minh bằng được hai địa điểm ngoại thương quan trọng ở Đàng Trong là Phố Lở và Hội An, với tình hình buôn bán của người Trung Quốc ở đấy thời xưa. Đúng như giáo sư Nguyễn Huệ Chi nhận xét: “Trên phương diện nào kiến giải của ông cũng chi li thấu đáo, đi đến tận ngọn ngành sự việc, và luôn luôn lấy thực chứng làm nền tảng”.
Trong một đêm khó ngủ ở tuổi 84, Đào Duy Anh đã nhớ lại hai câu tâm sự của Nguyễn Du: Bất tri tam bách... Và ông đã cảm hứng, bộc bạch tâm sự bản thân:
Ông hỏi đời sau ai khóc mình?Mà nay bốn bể lại lừng danhCho hay tất thảy đều mây nổi Còn với non sông một chút tình
Tình của ông đối với dân tộc, chúng ta ai cũng trân trọng. Nhưng những công trình xuất sắc ấy đã để lại sẽ còn có chỗ đứng lâu dài trong lòng học giới VN. Ông hết sức xứng đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt II, năm 2002). Ông cũng xứng đáng với sự đánh giá của Từ điển bách khoa Larousse (Pháp, 1968), Đào Duy Anh là “một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư hiện đại”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận