28/08/2010 02:09 GMT+7

Chụp MRI - sơn hào hải vị có ngon hơn?

BS TĂNG HÀ NAM ANH
BS TĂNG HÀ NAM ANH

TTCT - Chụp MRI đã trở nên phổ biến. Nhiều bệnh viện trang bị máy MRI và cũng rất nhiều bác sĩ ưa thích việc chỉ định chụp MRI.

Trong quá trình khám và điều trị cho bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối hoặc đứt dây chằng chéo trước ở khớp gối, chúng tôi luôn nghe bệnh nhân hỏi “có cần chụp MRI không”, thậm chí có người cầm sẵn tấm phim MRI. Ở một số bệnh viện, nhiều bác sĩ chỉ định chụp MRI với lý do “để chẩn đoán và điều trị” tốt hơn. MRI có thật sự cần thiết đến vậy?

Khéo chọn, món rẻ vẫn ngon

Trong bệnh lý thoái hóa khớp gối, vai trò của MRI ra sao?

Thoái hóa khớp gối hay xảy ra khi chúng ta bước vào tuổi 40-50, biểu hiện từ tình trạng mặt sụn khớp của khớp gối bị mềm, hư tổn, tạo các đường nứt và lan sâu xuống tận vùng xương. Nặng hơn, các mảng sụn bị bong tróc, để lộ lớp xương dưới sụn, bao hoạt mạc khớp gối sẽ bị viêm và tiết ra nhiều loại men làm hư thêm lớp sụn này.

Bệnh nhân thấy đau tăng khi đi lại nhiều và giảm khi nghỉ ngơi vì khi đi lớp sụn đã mất, chỉ còn hai mặt xương tiếp xúc nhau nên gây đau (sụn tiếp xúc với sụn không gây đau vì sụn không có thần kinh cảm giác). Về lâu dài, khớp gối sẽ bị hư hoàn toàn và biến dạng vẹo vào trong, sụn hư hoàn toàn gây tàn phế.

Chụp cộng hưởng từ hay MRI (Magnetic Resonance Imaging) là một kỹ thuật chẩn đoán y khoa tạo ra hình ảnh giải phẫu của cơ thể (các lớp cắt của các bộ phận cơ thể từ nhiều giác độ trong một thời gian ngắn) nhờ sử dụng từ trường và sóng radio.

Như vậy, vấn đề chẩn đoán thoái hóa khớp là xác định mức độ mòn của lớp sụn và điều trị là chỉnh trục lệch vẹo của chân, bảo vệ sụn.

Nhưng làm thế nào để chẩn đoán mức độ hư sụn? Thoái hóa khớp có từ thời... có con người. Rất nhiều cách chẩn đoán thoái hóa khớp bằng X-quang đã được nghiên cứu trước khi có MRI. Phổ biến và hiệu quả nhất là chụp X-quang với tư thế đứng trên chân bị thoái hóa để hai mặt khớp áp vào nhau, nếu hai mặt sụn bị mòn hay hư sẽ làm khe khớp hẹp lại. Khe khớp càng hẹp thì mức độ hư sụn càng lớn.

Nếu chụp khớp gối bình diện thẳng với tư thế khớp gối hơi gấp nhẹ 30 độ (tư thế Shuss) sẽ phát hiện tình trạng hẹp khe khớp trong và ngoài của phần lồi cầu đùi phía sau (phần hay bị hư nhất trong bệnh thoái hóa khớp gối). Một số dạng chụp X-quang khác cũng giúp đo trục chi xem có bị lệch vẹo không để có hướng đục xương sửa trục, thay khớp, xem bánh chè có chạy đúng trong rãnh bánh chè của lồi cầu đùi không (chạy lệch cũng gây hư khớp).

Ngay cả tại Mỹ - quốc gia hay được gọi là giàu có hoặc “nghèo” hơn một chút là Pháp, các bác sĩ cũng không chụp MRI khi nghi ngờ thoái hóa khớp mà chỉ cần khảo sát X-quang bình thường. Lý do để họ không chỉ định MRI là giá trị chẩn đoán hư sụn khớp của MRI rất thấp (chỉ khoảng 40%) và chỉ khi sụn khớp hư nhiều. Nhưng ngay cả khi đó thì X-quang thường quy cũng có giá trị hơn nhiều. Cái chính là MRI không cung cấp nhiều thông tin để chẩn đoán và điều trị.

VN là nước nghèo, việc chụp MRI sẽ tốn một khoản tiền không nhỏ cho nhiều người dân... Trong trường hợp bệnh thoái hóa khớp, X-quang thường quy vẫn là món “ngon, bổ mà rẻ”.

Có thể lấy “tĩnh” thắng động”?

Dây chằng chéo trước và dây chằng chéo sau trong khớp gối làm nhiệm vụ giữ không cho mâm chày (cẳng chân) chạy ra trước và ra sau khi đi lại. Đa số dây chằng chéo trước bị đứt do té chống chân xoay người, đôi khi là do ưỡn gối quá mức. Dây chằng chéo sau đứt là do va chạm ở mặt trước cẳng chân đẩy mâm chày chạy ra sau. Lúc mới chấn thương, bệnh nhân thấy đau, gối sưng do chảy máu từ sự đứt dây chằng...

Sau khoảng 2-3 tuần, các triệu chứng này sẽ mất dần, tuy nhiên sẽ xuất hiện hiện tượng teo cơ tứ đầu đùi (cơ nằm phía trước đùi), thông thường gối sẽ bị lỏng do mâm chày không có gì giữ nên sẽ bị trật ra trước, gây triệu chứng mất vững hoặc đau hoặc cả hai (chúng ta dùng từ “sụm” gối để diễn tả triệu chứng mất vững - đang đi tự nhiên bị té hoặc không trụ được chân bị tổn thương dây chằng). Nếu không điều trị có thể sụn chêm sẽ bị rách và gây kẹt khớp, để lâu hơn nữa gối sẽ bị hư (thoái hóa sụn).

MRI là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tĩnh. Nghĩa là khi chụp MRI, bác sĩ có thể thấy trực tiếp hình ảnh của dây chằng chéo trước bị đứt hay những dấu hiệu gián tiếp giúp suy đoán dây chằng chéo có bị đứt hay không...

Tuy vậy, MRI cũng có những hạn chế như không thể phân biệt đứt bó nào của dây chằng chéo trước, đứt hoàn toàn hay chỉ một bó. MRI cho kết quả dương tính giả hay âm tính giả (nghĩa là không đứt dây chằng chéo trước mà đọc là có hay ngược lại) do lát cắt không đi qua hết chiều dài dây chằng.

Và vì MRI chỉ là hình ảnh “tĩnh” trong khi vai trò của dây chằng là “động”, nghĩa là bệnh nhân chỉ có triệu chứng khi chạy nhảy mà thôi, do vậy MRI không có vai trò trong việc chỉ định mổ tái tạo dây chằng chéo.

Bằng các test đặc biệt, bác sĩ có thể chẩn đoán được đứt dây chằng chéo và đây mới là yếu tố quyết định cho việc điều trị hơn là chỉ dựa vào phim MRI. Và nhất là đỡ cho bệnh nhân một khoản tiền không nhỏ do giá chụp MRI cao gấp nhiều lần chụp X-quang.

BS TĂNG HÀ NAM ANH
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên