![]() |
Chương này phân tích bối cảnh ra đời của CAFTA, giới thiệu nội dung của hiệp định này và đánh giá hiệu quả, tác động của CAFTA đến các nước thành viên cũ của ASEAN, sau đó bàn về ảnh hưởng của AFTA đối với Việt Nam. Phần kết luận tóm tắt một số điểm cần nhấn mạnh về nỗ lực và chiến lược cần thiết của Việt Nam để tận dụng thời cơ và giảm thách thức do CAFTA mang lại.
6.1. Bối cảnh ra đời của CAFTA
Trung Quốc và 10 nước ASEAN qua các Hội nghị thượng đỉnh ở Brunây (2001), Phnôm Pênh (2002), Bali (2003) và Viêngchăn (2004) đã lần lượt thoả thuận các bước chuẩn bị để cuối cùng đi đến ký kết các hiệp ước liên quan đến Hiệp định thương mại tự do (FTA), một cơ cấu hợp tác kinh tế lôi cuốn sự quan tâm của thế giới từ ba năm nay khi Trung Quốc đưa ra đề án và được các nước ASEAN hưởng ứng.
Chiến lược của Trung Quốc
Điểm nổi bật của hiệp định này là Trung Quốc đã nhượng bộ tối đa, đưa ra một đề án với nội dung hấp dẫn để các nước ASEAN dễ chấp nhận. Ngoài kế hoạch giảm thuế nói chung, hiệp định bao gồm một chương trình gọi là Thu hoạch sớm (Early Harvest) để giảm thuế ngay (từ đầu năm 2004) những mặt hàng nông phẩm mà đa số các nước ASEAN đặc biệt quan tâm. Trong hiệp định, Trung Quốc cũng đặc biệt chiếu cố các thành viên mới của ASEAN (Việt Nam, Lào, Mianma và Campuchia): Trung Quốc dành sự đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) cho cả các nước chưa gia nhập WTO, trì hoãn nghĩa vụ thực hiện FTA đối với các thành viên mới, viện trợ 5 triệu USD cho chương trình phát triển lưu vực sông Mêkông, chịu 1/3 phí tổn xây đường cao tốc nối Côn Minh với Băng Cốc.
Có nhiều yếu tố giải thích thái độ tích cực của Trung Quốc: thứ nhất, Trung Quốc muốn tạo sẵn vị trí chủ đạo trong quá trình hình thành cộng đồng hợp tác Đông Á trong tương lai. Cho đến cuối thập niên 1990, Trung Quốc bận tâm trong việc chuẩn bị gia nhập WTO, chưa rảnh tay nghĩ về cơ chế hợp tác khu vực Đông Á. Sau khi đạt được thoả thuận tay đôi với Mỹ vào tháng 11-1999, Trung Quốc xem việc gia nhập WTO chỉ còn là vấn đề thời gian (thực tế Trung Quốc gia nhập năm 2001). Trung Quốc bắt đầu triển khai chiến lược Đông Á mà điểm đột phá được chọn là ASEAN vì ở đây Nhật Bản và Mỹ cũng đang chú trọng, Trung Quốc thấy cần tạo ngay ảnh hưởng. Ngoài ra, quá trình hình thành cộng đồng hợp tác Đông Á sẽ phải bắt đầu từ ASEAN, không thể từ Nhật Bản, Trung Quốc hay Hàn Quốc vì các quan hệ phức tạp về lịch sử đang tồn tại. Thứ hai, có ý kiến cho rằng Trung Quốc muốn qua FTA đẩy mạnh quan hệ với ASEAN để kiềm chế chiến lược hướng Nam của Đài Loan (thông qua đầu tư trực tiếp và thương mại, sự hiện diện của Đài Loan tại ASEAN ngày càng lớn)11. Xem, chẳng hạn, Maie (2004). . Thứ ba, từ thập niên 1990, kinh tế Trung Quốc phát triển quá nhanh, cạnh tranh với ASEAN trên khắp các thị trường lớn trên thế giới, tạo ra mối lo ngại tại các nước này. Để xoa dịu mối lo này ở ASEAN, Trung Quốc thấy cần gây ấn tượng là việc kinh tế Trung Quốc lớn mạnh cũng đưa lại cơ hội phát triển cho các nước ASEAN. Trung Quốc gần đây dùng khái niệm quật khởi hoà bình (phát triển mạnh mẽ trong hoà bình và có tác dụng tốt đến các nước khác) để diễn tả ý tưởng này.. Thứ tư, Trung Quốc cần đẩy mạnh phát triển vùng Tây Nam để thu hẹp khoảng cách với vùng duyên hải, chiến lược tiếp cận ASEAN hy vọng sẽ mở rộng thương mại giữa các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây với Thái Lan và các nước thành viên mới của ASEAN. Đây là nhận định của một số nhà nghiên cứu Trung Quốc học như Zha (2002).. Về giao thông, các tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên tiếp cận dễ dàng với Việt Nam, Mianma, Lào và Thái Lan hơn là với vùng duyên hải của Trung Quốc. Triển vọng hợp tác tiểu vùng Mêkông mà Hành lang Nam Bắc là một trong những dự án trọng điểm sẽ thúc đẩy thương mại giữa vùng Tây Nam Trung Quốc với các nước ASEAN.
Tình hình phía ASEAN
Từ nửa sau thập kỷ 1990, ASEAN phải đối mặt với nhiều vấn đề mới: ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ châu Á, sự xuất hiện mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc, và sự gia tăng nhiều thành viên mới. Các vấn đề này đã mở ra một cục diện mới đối với ASEAN. Khủng hoảng tiền tệ gây ra những khó khăn nhất định đối với nền kinh tế các nước này và nhất là đã cho thấy hạn chế của tổ chức ASEAN trong việc gìn giữ sự ổn định kinh tế trong khu vực. Cuộc khủng hoảng tiền tệ cũng đã làm lịch trình thực hiện AFTA của các nước thành viên bị chậm lại. Sự xuất hiện của Trung Quốc khiến cho sức cạnh tranh của các nước ASEAN tại những thị trường chính như Mỹ, Nhật Bản bị yếu đi và nhất là làm cho dòng chảy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chuyển hướng (Chương 3). Do bối cảnh này, từ giữa thập niên 1990, nhiều nước ASEAN xem kinh tế Trung Quốc là mối đe doạ cho sự tăng trưởng vùng Đông Nam Á. Theo một số nhà phân tích, một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á từ tháng 7-1997 là do sự xuất hiện mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc. Xem, chẳng hạn, phần phân tích của Harada trong Trần Văn Thọ và những người khác (2001)..
Tuy nhiên, từ khoảng năm 2001, nhiều nước ASEAN, đặc biệt là Malaixia và Thái Lan, dần dần xem kinh tế Trung Quốc còn là cơ hội để các nước này tiếp tục tăng trưởng, vì thấy cùng với xuất khẩu, nhập khẩu của Trung Quốc cũng tăng nhanh và các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. đã xuất khẩu mạnh mẽ vào thị trường này. Chính các nước ASEAN cũng dần dần thấy là đối với họ, thị trường Trung Quốc ngày càng có vai trò quan trọng. Bảng 4.1 trong Chương 4 cho thấy Trung Quốc ngày càng trở thành thị trường hàng công nghiệp quan trọng của nhiều nước ASEAN. Đó là bản ma trận mậu dịch (trade matrix) của các nước Đông Á trong hai năm 1992 và 2002. Ta thấy trong giai đoạn này, các nước ASEAN đã đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp ra thị trường thế giới nhưng tốc độ xuất khẩu sang Trung Quốc tăng nhanh hơn các thị trường khác. Chẳng hạn, Thái Lan trong giai đoạn đó xuất khẩu hàng công nghiệp ra thế giới tăng 2,3 lần, nhưng sang Trung Quốc tăng tới 23,7 lần. Các con số tương ứng của Malaixia là 2,8 lần và 13,6 lần, Philíppin là 4,4 lần và 15,1 lần. Dĩ nhiên vào năm 1992 các nước ASEAN buôn bán với Trung Quốc chưa nhiều nên dễ làm cho tốc độ tăng nhanh. Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc đã chiếm một vị trí quan trọng trong thị trường xuất khẩu của ASEAN và, như sẽ thấy dưới đây, tiềm năng thâm nhập vào thị trường này còn rất lớn. Do đó, ASEAN tích cực hưởng ứng ký kết FTA với Trung Quốc với hy vọng khai thác tiềm năng này. Họ đã tích cực đáp lại đề nghị của Trung Quốc, chấp nhận việc sớm tự do hoá thương mại đối với những mặt hàng nông sản phẩm trước khi mục tiêu chung cho các sản phẩm khác sẽ được thực hiện vào năm 2010 đối với các thành viên cũ và năm 2015 đối với các thành viên mới của ASEAN.
6.2. Nội dung của CAFTA và hiệu quả đối với các nước ASEAN
Nội dung sơ lược của CAFTA
Nội dung chính của FTA Trung Quốc - ASEAN là chương trình cắt giảm thuế quan để mở rộng thương mại, trong đó các nhóm mặt hàng được chia làm hai loại, loại thông thường (normal track) và loại nhạy cảm (sensitive track). Trong loại thông thường, Trung Quốc và các nước thành viên cũ bắt đầu cắt giảm thuế từ tháng 1-2005 và bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2010, các nước thành viên đặt mục tiêu bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2015. Chi tiết cụ thể về loại nhạy cảm chưa được xác định, hai bên sẽ thương lượng trong thời gian tới.
Chương trình Thu hoạch sớm thực hiện cắt giảm thuế từ năm 2004 đến 2006 đối với các thành viên cũ của ASEAN và từ năm 2004 đến 2008 đối với Việt Nam (Lào, Mianma đến năm 2009 và Campuchia đến năm 2010). Cụ thể hơn, căn cứ vào mức thuế vào ngày 1-7-2003, các mặt hàng nông phẩm thuộc chương trình Thu hoạch sớm được chia làm ba loại: đối với các nước thành viên cũ của ASEAN, loại I có mức thuế quan hiện hành trên 15% được giảm xuống 10% vào đầu năm 2004, 5% vào năm 2005 và 0% năm 2006; loại II có mức thuế quan hiện hành dưới 15% đuợc giảm còn 5% năm 2004 và bãi bỏ hoàn toàn năm 2005; loại III có mức thuế hiện hành dưới 5% được bãi bỏ hoàn toàn năm 2004. Đối với Việt Nam, loại I có mức thuế quan hiện hành trên 30% giảm xuống còn 20% năm 2004 và giảm dần đến 0% năm 2008; loại II có mức thuế hiện hành từ 15% đến 30% giảm còn 10% năm 2004 và giảm dần xuống 0% năm 2008; loại III có thuế suất hiện hành dưới 15% được giảm xuống 5% năm 2004 và 0% năm 2008.
Đánh giá hiệu quả của CAFTA đối với kinh tế và ngoại thương ASEAN - trường hợp các nước thành viên cũ
Hiệu quả của CAFTA đối với Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN tùy thuộc vào cơ cấu thương mại hiện tại và mức thuế quan hiện hành của từng nước. Đó là hiệu quả tĩnh (static). Hiệu quả động (dynamic) tuỳ thuộc vào chính sách, chiến lược của từng nước nhằm thay đổi cơ cấu thương mại hiện tại để tận dụng các cơ hội do CAFTA mang lại. Dưới đây sẽ phân tích cơ cấu ngoại thương hiện nay giữa Trung Quốc với từng nước thành viên ASEAN và tham khảo tình hình mức thuế quan hiện nay để đánh giá sơ bộ hiệu quả của CAFTA đối với các thành viên cũ, và nêu một số gợi ý về chiến lược của các nước này để tăng hiệu quả động của CAFTA. Mục 6.3 sẽ bàn riêng về hiệu quả của CAFTA đối với Việt Nam, một thành viên mới của ASEAN, trong quan hệ thương mại với Trung Quốc và cũng sẽ đưa ra vài gợi ý cho Việt Nam để thay đổi cơ cấu ngoại thương hiện tại nhằm tận dụng hiệu quả động của CAFTA.
Dựa trên thống kê của Liên hợp quốc, ta thử phân tích cơ cấu thương mại của Trung Quốc đối với các nước ASEAN. Bảng 6.1 trình bày kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc sang 10 nước ASEAN trong bốn năm từ năm 1992 đến 2002. Có thể nêu ra mấy nhận xét sau: thứ nhất, riêng hai nước Xingapo và Malaixia chiếm tới hơn một nửa kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với ASEAN. Ngược lại, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với Lào, Campuchia và Mianma hầu như không đáng kể. Thứ hai, gần đây (2002), Trung Quốc nhập siêu với tất cả sáu nước thành viên cũ của ASEAN trong khi đó xuất siêu với tất cả bốn nước thành viên mới. Vì lý do này, ở đây ta ít bàn đến những nước ở hai thái cực này mà chủ yếu phân tích tình hình của các nước Thái Lan, Inđônêxia và Philíppin là những nước có quy mô dân số tương đối lớn và ở trong một giai đoạn phát triển gần với Trung Quốc. Thứ ba, nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước Malaixia, Philíppin và Thái Lan tăng nhanh trong giai đoạn 1996 - 2002, nói lên nỗ lực của ba nước này trong việc thâm nhập vào thị trường Trung Quốc.
Nếu tách riêng hàng công nghiệp ra để khảo sát ta cũng thấy những đặc điểm tương tự, chỉ khác một vài điểm nhỏ: Thứ nhất, Trung Quốc xuất siêu với Inđônêxia trong mậu dịch hàng công nghiệp nhưng kim ngạch cũng không lớn lắm. Thứ hai, Philíppin, Malaixia và Thái Lan đặc biệt đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp sang Trung Quốc với tốc độ cao hơn các sản phẩm khác. Từ năm 1996 đến 2002, nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc từ Philíppin tăng 18,2 lần, từ Malaixia tăng 5,4 lần và từ Thái Lan tăng 4,6 lần.
Về hàng nông sản, Trung Quốc nhập siêu nhiều với Thái Lan, Malaixia và Inđônêxia. Riêng xuất khẩu từ ba nước này tính gộp chiếm gần 90% tổng nhập khẩu của Trung Quốc từ khối ASEAN (năm 2002). Xuất khẩu của các nước ASEAN khác sang Trung Quốc trong mặt hàng này không đáng kể. Do đó, chương trình Thu hoạch sớm trong CAFTA có lợi cho ba nước Thái Lan, Malaixia và Inđônêxia nhất. Và đây cũng là lý do cho thấy ba nước này tích cực nhất đối với đề án của Trung Quốc về CAFTA.
Bảng 6.2 khảo sát cơ cấu ngoại thương giữa Trung Quốc và 10 nước ASEAN trong hai năm 1996 và 2002. Có mấy đặc điểm đáng ghi nhận: một là, hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong xuất khẩu của Trung Quốc đối với hầu hết các nước ASEAN. Tỷ lệ hàng công nghiệp cũng cao trong nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước thành viên ASEAN cũ. Tuy nhiên, nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam và các nước thành viên mới thì phần lớn là hàng nông sản hoặc quặng mỏ, tỷ lệ hàng công nghiệp khá thấp. Hai là, trong cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước thành viên cũ của ASEAN, tỷ lệ của hàng công nghiệp đặc biệt tăng nhanh (giai đoạn 1996 - 2002), nhất là Philíppin, Thái Lan, Inđônêxia, nói lên nỗ lực của các nước này trong việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của họ sang Trung Quốc. Ngược lại, sự chuyển dịch đó không đáng kể trong trường hợp các nước thành viên mới. Tóm lại, có sự phân công hàng ngang (vừa xuất và nhập hàng công nghiệp) giữa Trung Quốc với các nước thành viên cũ của ASEAN, nhưng giữa Trung Quốc với các nước thành viên mới thì có sự phân công hàng dọc (Trung Quốc xuất hàng công nghiệp, nhập hàng nông lâm thuỷ sản và nguyên liệu khai từ các loại quặng mỏ).
Từ cơ cấu thương mại như đã phân tích, hiệu quả của CAFTA đối với ASEAN sẽ ra sao? Như đã nói, để phân tích hiệu quả cần có thông tin về thuế quan hiện nay của những mặt hàng buôn bán chủ yếu giữa ASEAN và Trung Quốc. Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi (Trần Văn Thọ và Matsumoto 2004), đối với những nước thành viên cũ của ASEAN, những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc đang có thuế suất thấp (phần lớn dưới 10%, nhiều mặt hàng 0%). Ngược lại, những mặt hàng chủ yếu mà Trung Quốc nhập khẩu từ các nước thành viên cũ của ASEAN thì thuế quan cao hơn nhiều. Do đó, hiệu quả của CAFTA sẽ lớn đối với các nước thành viên cũ như Thái Lan, Malaixia, Philíppin (tăng xuất khẩu từ các nước này sang Trung Quốc khi thuế quan bên Trung Quốc giảm), và hiệu quả của CAFTA đối với Trung Quốc có thể thấp hơn. Tuy nhiên, trong các ngành máy móc như đồ điện gia dụng, xe máy, xe hơi, máy tính cá nhân, máy in, v.v., thuế quan của ASEAN đối với hàng nhập các bộ phận, linh kiện từ Trung Quốc còn cao, ít nhất cao hơn thuế suất áp dụng trong AFTA. Do đó, khi CAFTA thành lập, xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN sẽ tăng với tốc độ nhanh hơn hiện nay. Hiện nay, trong các ngành máy móc nói trên, Trung Quốc xuất và nhập cùng một loại mặt hàng (ngoại thương trong nội bộ từng ngành, intra - industry trade) và các nước thành viên cũ của ASEAN cũng có khuynh hướng tương tự. Giữa Trung Quốc và ASEAN cũng có hiện tượng cùng xuất và nhập những mặt hàng trong nội bộ các ngành máy móc. Các công ty đa quốc gia đã và đang xây dựng mạng lưới sản xuất tại châu Á, tuỳ theo đặc tính của mỗi linh kiện, bộ phận mà chọn địa điểm sản xuất tại từng nước. Như vậy, nếu thuế quan giảm theo lộ trình của CAFTA, việc xây dựng mạng lưới sản xuất nói trên sẽ thực hiện dễ dàng hơn và ta có thể kỳ vọng ngoại thương trong nội bộ từng ngành sẽ được triển khai mạnh mẽ hơn giữa Trung Quốc và ASEAN.
Phân tích chi tiết cơ cấu nhập khẩu của Trung Quốc và cơ cấu xuất khẩu của các nước vào thị trường này (Bảng 6.3) ta thấy năm nước thành viên cũ của ASEAN cũng có một vị trí quan trọng. Thị phần của ASEAN trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc xấp xỉ với Hàn Quốc và Mỹ. Đặc biệt trong những mặt hàng như linh kiện điện tử, bán dẫn, phụ tùng linh kiện thiết bị văn phòng, máy thiết bị lưu trữ, xử lý dữ liệu v.v., ASEAN có thị phần khá lớn. Tuy nhiên, như đã thấy ở Bảng 6.1, hơn một nửa kim ngạch xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc là từ hai nước Xingapo và Malaixia. Các nước Thái Lan, Để tăng năng lực cạnh tranh, các nước ASEAN cần đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài. Để tạo thị trường đầu tư hấp dẫn, làm sao tăng khả năng cung cấp lao động lành nghề, lao động có trình độ kỹ thuật cao đang là vấn đề then chốt. Như đã đề cập trong Chương 3, hiện nay nhiều nước ASEAN thua hẳn Trung Quốc về lĩnh vực này. Điều này sẽ làm hạn chế sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của ASEAN và có thể làm cho thị trường đầu tư của các nước này kém hấp dẫn. Nhanh chóng khắc phục vấn đề này là tiền đề để thu hút FDI hơn nữa và do đó năng lực cạnh tranh của ASEAN mới được tăng cường.
6.3. Đánh giá hiệu quả đối với Việt Nam
Để dễ phân tích chỗ đứng của Việt Nam và hiệu quả của CAFTA đối với kinh tế Việt Nam, ở đây ta thử so sánh Việt Nam với Philíppin và Thái Lan là những nước có cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển tương đối gần Việt Nam. Có thể thấy vị trí của Việt Nam hiện nay đang bất lợi (xem các Bảng 6.1 và 6.2). Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu từ Trung Quốc sang ba nước Việt Nam, Philíppin và Thái Lan hầu như bằng nhau, nhưng nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam rất ít trong khi Philíppin và Thái Lan đang mạnh mẽ tiến vào thị trường to lớn này. Việt Nam đang nhập siêu nhiều với Trung Quốc, trong khi Thái Lan và Philíppin đều xuất siêu ở mức cao. Thứ hai, phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN đều là hàng công nghiệp; hai nước Philíppin và Thái Lan từ năm 1996 đến 2002 cũng thành công trong chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang Trung Quốc. Trong khi đó, tỷ lệ hàng công nghiệp trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc từ Việt Nam hiện nay chỉ hơn 10% (các loại khoáng sản như dầu thô, than đá chiếm khoảng 70% và nông sản gần 20%). Như vậy, quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có đặc tính là sự phân công hàng dọc11. Tôi đã có dịp phân tích cơ cấu ngoại thương này và gọi quan hệ kinh tế giữa Việt Nam, và Trung Quốc là quan hệ Bắc Nam. Xem Trần Văn Thọ (2002b)., trong khi đó, như đã đề cập, các nước ASEAN khác triển khai phân công hàng ngang với thị trường lớn này. Đáng chú ý là thành quả của Philíppin: năm 1996 kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ lớn hơn một chút so với Việt Nam, nhưng cho đến năm 2002 đã tăng 8,6 lần và tăng tỷ trọng hàng công nghiệp lên đến trên 90%.
Trước mắt, nhiều người quan tâm về hiệu quả của chương trình Thu hoạch sớm. Các nước thành viên cũ của ASEAN xuất khẩu mạnh hàng công nghiệp sang Trung Quốc nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng nông phẩm cũng không nhỏ. Vào năm 2002, kim ngạch đó của Thái Lan là gần 1 tỷ USD, của Malaixia là 1,2 tỷ và Inđônêxia cũng 1,2 tỷ, trong khi Việt Nam chỉ có 202 triệu. Do đó hiệu quả của chương trình Thu hoạch sớm đối với ba nước thành viên cũ sẽ khá lớn. Đặc biệt, Thái Lan đã chuẩn bị rất chu đáo để tận dụng hiệu quả này: Chính phủ và doanh nghiệp Thái Lan từ khi xác định được thời điểm bắt đầu thực hiện chương trình Thu hoạch sớm từ cuối năm 2002 đã nỗ lực tiếp thị và mở rộng các kênh xuất khẩu hàng nông phẩm sang Trung Quốc. Do đó, khi chương trình có hiệu lực, thành quả của Thái Lan đã thấy rõ. Trong sáu tháng đầu năm 2004, xuất khẩu rau và trái cây của Thái Lan sang Trung Quốc đã đạt gần 600 triệu bạt, tăng khoảng 50% so với cùng kỳ năm trước (theo Ohizumi 2004). Việt Nam muốn tận dụng hiệu quả của chương trình Thu hoạch sớm thì ngay từ bây giờ phải tăng năng lực cung cấp đồng thời mở rộng các kênh xuất khẩu và tăng tiếp thị.
Về hàng công nghiệp, như đã nói ở trên, hiện nay mức thuế tại các nước thành viên cũ của ASEAN tương đối thấp, thuế ở Trung Quốc cao hơn. Với năng lực cung cấp hiện nay và kế hoạch tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở rộng sản xuất, các nước Thái Lan, Malaixia, Philíppin… có triển vọng sẽ tăng xuất khẩu hàng công nghiệp sang Trung Quốc hơn nữa khi thuế suất giảm dần trong khuôn khổ FTA. Hai bên sẽ tiếp tục đẩy mạnh phân công hàng ngang trong ngoại thương. Riêng trường hợp Việt Nam, hiện nay thuế quan của nhiều mặt hàng công nghiệp đang rất cao mà hàng Trung Quốc vẫn thâm nhập vào được nên có thể dự đoán được rằng khi thuế quan được tiến hành cắt giảm trong khuôn khổ FTA, hàng công nghiệp Trung Quốc sẽ ào ạt vào thị trường Việt Nam nếu khả năng cạnh tranh của Việt Nam không thay đổi. Như vậy, quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Mặt khác, thị trường Trung Quốc sẽ rộng mở hơn nhưng với năng lực cung cấp hiện nay, Việt Nam khó có thể tận dụng cơ hội do FTA với Trung Quốc mang lại.
Hiệu quả tĩnh của FTA đối với Việt Nam như vậy là đáng lo. Con đường duy nhất để khắc phục hiệu quả này là chủ động tạo ra một sự chuyển dịch đáng kể trong cơ cấu ngoại thương với Trung Quốc để làm phát sinh hiệu quả động của FTA mới tận dụng được cơ hội do FTA với Trung Quốc mang lại. Việt Nam sẽ hoàn toàn bãi bỏ hàng rào quan thuế đối với hàng công nghiệp Trung Quốc từ năm 2015 nhưng trước đó đã phải giảm đáng kể mức thuế quan. Do đó, thách thức sẽ đến trong 5, 6 năm tới. Thời gian không còn nhiều. Việt Nam phải tận dụng FDI, tìm mũi đột phá cho chiến lược công nghiệp hoá để đối phó có hiệu quả thánh thức này và tận dụng được cơ hội do thị trường Trung Quốc mang lại trong khuôn khổ FTA.
Kết luận
Kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh vừa trở thành thách thức vừa đem lại cơ hội (Trung Quốc cũng nhập khẩu nhiều, thị trường đang lớn mạnh) đối với các nước ASEAN. Hiệp định thương mại tự do giữa Trung Quốc và ASEAN đối với Trung Quốc có ý nghĩa về chính trị hơn là kinh tế nhưng đối với những nước thành viên cũ của ASEAN, hiệp định đã tăng thêm cơ hội để các nước trên đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường to lớn này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là các nước này phải tăng cường năng lực cạnh tranh để tận dụng cơ hội đó. Chú trọng vấn đề cung cấp lao động lành nghề để thu hút FDI hơn nữa là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để tăng sức cạnh tranh.
Đối với Việt Nam, sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc đang trở thành một thách thức lớn và CAFTA sẽ làm cho thách thức đó càng mạnh hơn. Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc mang lại, Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang Trung Quốc, phải có khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường Trung Quốc. Thu hút FDI là con đang ngắn nhất để đạt mục đích này.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận