10/02/2007 15:18 GMT+7

Chơi thai đố

HUỲNH NGỌC TRẢNG
HUỲNH NGỌC TRẢNG

TTCT - Thai đố là trò chơi ức đoán ngày xưa. Nói ngày xưa bởi ngày nay rất hiếm ai biết.

0fl6eS1i.jpgPhóng to

May mắn là trong thủ bút của cụ Trương Vĩnh Ký (hộp II, tập 15, Thư viện KHXH tại TP.HCM) có ghi lại mấy dòng: “Nhân ngày nguyên, trăng thanh gió mát, tạnh ráo, chủ bày ra kêu mấy anh em tới chơi. Chọn một người hay chữ giỏi làm thầy thai ra đề, cầm trống cho người ta nói thai.

Người ta phất một lồng đèn vuông bằng giấy trắng. Bốn phía có viết đề thai dán lên trên đó. Đề thai hoặc “xuất danh”, “xuất vật dụng, khí dụng”, hay “xuất mộc”, “xuất thú”, hoặc “xuất tục diêu”, “bình Túy kiều”, hay “xuất điển”, “chiết tự”... Ai nói trúng được, trúng ý đề thai nêu ra thì được thưởng. Mỗi đề đều nói rõ trước là sẽ thưởng vật gì như quạt, khăn vuông, hầu bao, giấy mực... Nói trúng thì đánh một hồi trống, nói trật thì gõ tang trống”.

Thai, còn đọc là xai, từ Hán Việt có nghĩa là: nghi, bói, định chừng. Huình Tịnh Của trong Đại Nam quấc âm tự vị (Sài Gòn, 1896) đã cho biết như vậy. Ông còn định nghĩa: 1/ Ra thai: ra lời hai ba nghĩa làm như câu đố; 2/ Thầy thai: thầy ra câu đố, làm lời bóng dáng mà chỉ vật; 3/ Câu thai: câu đố. Đến đây thì đã rõ thai đố là như vậy.

Ở phương Nam, kết quả điều tra thực tế cho thấy rằng ngày xưa ngoài Long An thì Bến Tre có trò chơi thai đố khá thịnh. Có lẽ đó là thực tế mà Trương Vĩnh Ký đã trải nghiệm. Đến đầu thế kỷ XX, thậm chí đến Cách mạng Tháng Tám, thai đố còn phổ biến ở lễ hội đình làng tại Sóc Trăng, ở lễ vía Quan Thánh Đế quân (chùa ông Minh Hương) Rạch Giá và tại một số kẹt-mết ở Thủ Đức, Nhà Bè, Hóc Môn (TP.HCM).

Cuộc chơi thai đố thời cận đại được tổ chức trên khu đất rộng ở hội chợ hay sân đình, miếu. Người ta dựng cái chòi cao cẳng, cách mặt đất độ 1,5m. Cửa chòi thả tấm sáo lửng. Trong chòi có bộ bàn ghế và cặp nhạc cụ, gồm trống và phèng la, ngoài cửa có tấm bảng để dán đề thai và bàn để tặng phẩm.

Trò chơi do thầy thai chủ trì. Ông mặc áo dài, bịt khăn đóng, ngồi một mình trong chòi: dùng trống và phèng la ra hiệu lệnh. Phụ việc cho thầy thai là vài ông biện (thư ký) ở ngoài cửa chòi. Mỗi câu thai viết trên giấy, cuộn tròn, niêm kỹ để giữ bí mật cho đến giờ chót. Vào cuộc chơi, thầy thai ban lệnh cho biện dán đề thai trên bảng. Mọi người tụ lại xem câu thai và đoán thầm đáp án. Đề thai có hai phần: 1/ Câu đố bằng văn vần (viết bằng chữ quốc ngữ); 2/ Cuối câu đố có ghi hướng dẫn, chỉ rõ đố vật gì, việc gì - gọi là xuất nhơn (người), xuất vật (đồ vật), xuất bỉnh (bánh), xuất ngư (cá), xuất điểu (chim), xuất thiên văn, xuất địa lý, xuất sơn (núi), xuất giang (sông), xuất tự (chữ Hán)... Cũng có lúc chỉ rõ đáp án chi tiết hơn: xuất nông khí, xuất ngư cụ, xuất trù khí (đồ nấu bếp), xuất hí cụ (đồ chơi), xuất dược (tên các vị thuốc bắc)...

Ai hoặc một nhóm đoán ra câu đố thì đọc to câu đố đó, nói to lời giải của mình. Đáp trúng: thầy thai đánh trống, thanh la dồn dập. Đáp sai: thầy thai gõ một tiếng thùng, người ấy bị loại. Khi nghe trống, thanh la dóng lên, ông biện bóc tờ giấy ghi đề thai đặt lên cái mâm cùng với phần thưởng trịnh trọng trao cho người thắng cuộc.

Câu thai mắc rẻ không chừng. Dẫn vài câu thông thường:

- Vừa đánh vừa trói,

Bị trói thâu đêm.

Sáng ra chặt đầu,

Lại đặt tên khác.

Xuất thảo: cây mạ

- Trên lông, dưới lông,

Tối nằm chồng lại ngủ.

Xuất nhân thể: con mắt

Câu thai mắc mỏ đòi hỏi phải qua nhiều liên tưởng từ nghĩa của từ vựng, ý chung của toàn bài. Chẳng hạn các câu ca dao ai cũng biết sau đây, khi đem ra làm đề thai thì lời giải là một lý sự rất... cùn.

- Vô chùa thỉnh Phật cầu chồng,

Ông Phật ổng bảo đàn ông hết rồi.

Xuất mộc: cây giá

- Má ơi con muốn lấy chồng,

Con ơi mẹ cũng một lòng như con.

Xuất bỉnh: bánh in (giải thích là mẹ con in như nhau, giống hệt nhau)

- Núi kia ai đắp mà cao,

Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu?

Xuất bỉnh: bánh hỏi

- Ro re nước chảy qua đèo,

Bà già lật đật mua heo cưới chồng.

Cưới về ổng bỏ, ổng đi

Tiếc công lật đật, tiếc mấy chục đồng mua heo.

Xuất điểu: chim chàng nghịch (giải thích là bà già này làm cái chuyện nghịch thiên nghịch địa)

Có loại đề thai thoạt nghe như ca dao, ca từ của hát hò dân dã:

- Tay bưng hộp quả, bước đại xuống ghe,

Má kêu mặc má, thương chồng con theo.

Xuất ngư: cá bạc má.

- Chiều chiều lửa cháy, cơm sôi,

Heo kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem.

Bây giờ tối lửa, tắt đèn,

Heo kêu, con ngủ, tòm tem thì tòm.

Xuất quả: trái thanh yên (cùng họ với cam, quả lớn và chua)

Lại có lúc đề thai lấy từ truyện thơ nôm và lời giải thì chẳng dính líu đến nội dung điển tích của nguyên tác gì cả. Ở đây là chơi mà. Xung năng chơi là ở đây và bây giờ, tách biệt với cuộc sống thường nhật và lý lẽ thông thường.

- Gối rơm xong phận gối rơm,

Có đâu dưới thấp mà chờm lên cao (Lục Vân Tiên)

Xuất ngư: cá leo (đáp án khác: cá kèo)

- Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa (Kiều)

Xuất bỉnh: bánh hạnh nhân

- Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai miệng, một lời song song (Kiều)

Xuất vật: cái sáo diều

Nói chung, hình thức thi tài ức đoán ở xứ ta là một trò chơi phổ cập. Ai ai từ thuở thiếu thời cũng thuộc một mớ câu đố. Trong hò hát đối đáp cũng có loại hò đố, sử dụng kiến thức, đặc điểm ngôn từ, văn tự, điển cố và cách miêu tả sự vật/ sự việc quanh co, thanh tục để đưa ra các thông tin về hình dáng, sắc màu, kích cỡ, số lượng, công dụng... Đối thủ lấy đó làm cơ sở ức đoán.

Hình thức thai đố là quá trình phát triển cao, tích hợp các thành tố trình diễn và công cộng hóa để trở thành hình thức vui chơi trong các dịp hội hè, thu hút sự động não của cả cộng đồng. Từ sinh hoạt thai đố này, ở Trung bộ người ta gọi hô bài chòi là “hô thai”. Điều khác biệt ở các câu bài chòi có tính minh dụ hơn là ẩn dụ của câu thai đố. Ở vùng Bình Trị Thiên phổ biến trò chơi bài thai: giấu một con bài tới trong cái chén úp lại và người cầm cái hô một đề thai để người chơi lấy đó đoán ra con bài mà đặt tiền vào cửa bài đó. Chén mở, con bài “nọc” trưng ra và người cầm cái phải giải thích sự tương hợp của đề thai và con bài. Chuyện ăn thua rất thú vị bởi có nhiều người cầm cái đưa ra các đề thai rất bao la đòi hỏi cách giải thích dây cà ra dây muống cực kỳ phóng túng. Nói chung, cả vùng Đàng Trong, các trò chơi gắn với thai đố rất thịnh hành. Ngay cả trò chơi xổ đề cổ nhơn 36 con cũng là một thứ thai đố.

HUỲNH NGỌC TRẢNG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên