![]() |
Ca sĩ Ayumi Hamasaki – một “Jennifer Lopez” của Nhật |
Làm gì để bảo vệ văn hóa là câu hỏi không chỉ dành cho giới chủ quản văn hóa mà còn được xem trọng ở những nhà hoạch định chính sách. Vài nước châu Á đang làm rất tốt việc bảo vệ văn hóa trước sự xâm nhập của văn hóa Mỹ. Thử rút ra vài kinh nghiệm từ những bài học này…
Hàn Quốc là nước đầu tiên cần quan sát. Sự chiếm lĩnh lan tràn của phim truyền hình Hàn Quốc tại châu Á không còn là điều lạ. Không chỉ phim truyền hình, phim nhựa cũng như DVD phim Hàn Quốc đã xuất hiện ào ạt tại nhiều thị trường châu Á vài năm qua. Tuần báo Mỹ Newsweek mới đây (số đề ngày 3-5-2004) đã có bài viết về hiện tượng điện ảnh Hàn Quốc tại khu vực.
Theo Newsweek, phim Lord of the rings - The return of the king đã không vượt qua nổi hai sản phẩm điện ảnh nội địa Hàn Quốc là Taegukgi và Silmido (tổng số vé bán được lên đến hơn 12 triệu, trong một nước dân số 48 triệu như Hàn Quốc). Nhìn toàn cảnh, Hollywood không còn thống trị màn bạc Hàn Quốc.
![]() |
Phim Taegukgi (hiện đứng đầu doanh thu với 11.470.101 vé tại thị trường Hàn Quốc, so với 1.306.000 vé của phim Mỹ The Last Samurai, thống kê tính đến ngày 15-4-2004 - koreanfilm.org) |
Sự bùng nổ công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc có được nhờ một phần từ chính sách. Chính phủ Seoul có kế hoạch biến Liên hoan phim Pusan thành một liên hoan Cannes của châu Á. “Chúng tôi nhìn Hàn Quốc bằng con mắt ganh tị” - nhà sản xuất điện ảnh Hong Kong Bill Kong (Ngọa hổ tàng long) đã phải thốt lên. Không thể không ganh tị khi biết rằng công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc thật ra là đàn em so với công nghiệp điện ảnh Hong Kong từng khuynh đảo thị trường điện ảnh khu vực nhiều thập niên qua; và vào thập niên 1990, Hollywood còn thống trị 80% thị trường điện ảnh Hàn Quốc.
Doanh thu điện ảnh tại Hàn Quốc từng bước chiếm tỉ lệ cao trong công nghiệp văn hóa nói chung, với 580 triệu USD/năm (so với 820 triệu USD của Ân Độ và 1,93 tỉ USD của Nhật). Từ năm 2000, điện ảnh Hàn Quốc bắt đầu chiếm lĩnh thị trường nội địa, từ 50% năm ngoái lên 70% trong quí 1-2004. Chuyên nghiệp hóa điện ảnh Hàn Quốc còn thể hiện ở chỗ ngân sách cho quảng cáo-tiếp thị đã vọt lên hơn 1 triệu USD/phim và số rạp hát cũng xuất hiện liên tục (cụm rạp Megabox Cineplex được xem là lớn nhất châu Á - theo koreanfilm.org). Sáng phim Hàn Quốc, chiều phim Hàn Quốc và tối phim Hàn Quốc cũng là hiện tượng không chỉ với màn ảnh truyền hình Việt Nam mà còn ở nhiều nước khu vực.
![]() |
Cảnh trong Chàng trai cũ (một trong hai phim Hàn Quốc dự LHP Cannes vào tháng 5-2004) |
Trong thực tế, Nhật là nước mua nhiều phim bộ truyền hình Hàn Quốc nhất, chiếm 19% trong tổng số phim truyền hình nhiều tập xuất khẩu của Hàn Quốc vào năm ngoái (kế đó là Trung Quốc với 18,6%). Xuất khẩu phim truyền hình Hàn Quốc đạt 28, 3 triệu USD năm 2003, tăng cực nhanh so với 16,3 triệu USD năm 2002.
Quốc gia thành công nữa không chỉ trong cuộc chiến bảo vệ văn hóa bản địa mà còn thừa bản lĩnh để xuất khẩu văn hóa không thể không kể đến là Nhật. Trong thực tế, Nhật là đàn anh Hàn Quốc trong công nghiệp xuất khẩu văn hóa. Kyoto Review of Southeast Asia (3-2004) cho biết xuất khẩu văn hóa Nhật đã tăng liên tục 15 năm qua, với đủ sản phẩm, từ điện ảnh, phần mềm, ca nhạc đến video game.
Chỉ riêng truyện tranh Nhật đã là ngành công nghiệp trị giá 19 tỉ USD (60% phim hoạt họa truyền hình thế giới được sản xuất tại Nhật), trong tổng trị giá công nghiệp văn hóa 106 tỉ USD (chiếm 2% GDP, gấp đôi công nghiệp thép và bằng phân nửa công nghiệp xe hơi Nhật!). Nhật cũng làm cực tốt chiến lược liên kết đối tác nước ngoài (điển hình là loạt phim gần đây The Last Samurai với dàn diễn viên Mỹ-Nhật trong đó có Ken Watanabe được đề cử Oscar nam diễn viên phụ, hoặc Lost in translation của đạo diễn Mỹ Sofia Coppola dựng tại Tokyo).
![]() |
Aishwarya Rai - đại diện điện ảnh Ấn Độ đương đại |
Một cách tổng quát, xuất khẩu văn hóa là chiến lược cấp quốc gia của Nhật, nằm trong khái niệm gọi là “sức mạnh mềm” (“soft power”, thuật từ do giáo sư Joseph S. Nye thuộc Đại học Harvard đặt vào năm 1990 để nói đến các phương cách phi truyền thống mà một quốc gia sử dụng nhằm tạo ảnh hưởng). Ngoài Nhật và Hàn Quốc, nước thứ ba rất thành công trong kỹ thuật thương mại hóa sản phâm văn hóa là Ấn Độ (tuần báo Time 3-5-2004 cũng đề cập điều này).
Trong cuộc chiến bảo vệ văn hóa bằng nội lực, châu Âu hẳn phải nghiêng mình nể phục châu Á. 1/3 phim sản xuất tại châu Âu đã không vượt qua nổi biên giới khu vực (Time, ấn bản châu Âu đề ngày 8-3-2004). Từ 1996-2003, chỉ khoảng 50 phim châu Âu được phát hành tại 12 nước thuộc EU. Trong khi đó, phân nửa trong khoảng 550 phim Hollywood sản xuất hằng năm đã tấn công màn bạc châu Âu. Đức, Pháp, Ý - những nơi được xem là truyền thống của lịch sử điện ảnh thế giới - đều lao đao khốn đốn. Cơn lốc diễn viên châu Âu “trốn” sang Mỹ tiếp tục đe dọa điện ảnh khu vực này.
Thời văn hóa hội nhập, nhiều khái niệm mới đã nảy sinh, từ intercultural conviviality (thưởng thức văn hóa liên thông) đến infotainment (information và entertainment – thông tin và giải trí) và những khái niệm này ra đời từ thực tế xu hướng toàn cầu (cùng vài yếu tố chẳng hạn hiện tượng đô thị hóa và sự phát triển công nghệ thông tin).
|
Sức mạnh này chỉ có thể có khi công nghiệp văn hóa nói chung được nhìn nhận ở cấp độ chính sách quốc gia và được chuyên nghiệp ở mọi khâu, từ sản xuất đến phát hành, từ đào tạo đến quản lý, từ đầu tư đến sử dụng tài năng. Và điều đầu tiên trong mọi điều đầu tiên để hình thành nội lực là tạo ra một môi trường đủ thoáng và rộng, để ít nhất cũng có được sự cạnh tranh giữa các đối thủ trên sân nhà cũng như sự hợp lực (trong chính sách tư nhân hóa) giữa các hãng trong nước (chính sự liên kết giữa các hãng phim nội địa đã giúp Hàn Quốc tiến nhanh trong việc áp đảo Hollywood trên sân nhà), nhằm cuối cùng cung cấp thị trường sản phẩm tốt nhất và đủ bản lĩnh đối chọi sản phẩm văn hóa nước ngoài.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận