28/07/2012 07:01 GMT+7

Việt Nam liên tục thực thi chủ quyền

Nguyễn Thái Linh
Nguyễn Thái Linh

TT - Trong tranh chấp chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các luận cứ của VN và Trung Quốc trước hết dựa vào quyền phát hiện và chiếm hữu đối với lãnh thổ vô chủ (terra nullius).

Bản đồ Trung Quốc 1904 thu hút đông đảo người xemBản đồ Trung Quốc 1904 không có Hoàng Sa, Trường SaTây Sa và Nam Sa chưa từng được ghi nhận trong lịch sử phương chí Trung Hoa

b6pZu4eW.jpgPhóng to
Người dân thủ đô Hà Nội xem tấm bản đồ của Trung Quốc (năm 1904) chứng minh điểm cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam - Ảnh: VIỆT DŨNG

"Việc thu thập các tư liệu, bằng chứng lịch sử, trong đó có các bản đồ hành chính do nhà nước Trung Quốc công bố không bao gồm Hoàng Sa - Trường Sa, là việc làm hữu ích và cần thiết để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh pháp lý trong tương lai. Đó là cơ sở giúp chúng ta dựa vào luật pháp quốc tế để phản bác những luận cứ và yêu sách vô lý của Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo này"

Theo luật quốc tế, bản thân quyền phát hiện đầu tiên một lãnh thổ vô chủ không đủ để tạo ra danh nghĩa pháp lý cho quốc gia phát hiện. Muốn thụ đắc chủ quyền, quốc gia này phải tiếp tục chiếm cứ hiệu quả lãnh thổ đó một cách liên tục. Hai nguyên tắc cơ bản trong việc thụ đắc chủ quyền là nguyên tắc thật sự, tức chiếm hữu thật sự lãnh thổ vô chủ, coi đó như một bộ phận lãnh thổ của mình và thực thi quyền hạn nhà nước, quản lý hành chính trong một thời gian hợp lý; và nguyên tắc công khai - việc chiếm hữu phải được các quốc gia khác công nhận.

Ngoài yếu tố vật chất (corpus), việc chiếm hữu thật sự còn đòi hỏi yếu tố tinh thần (animus), nghĩa là ý chí của quốc gia muốn chiếm hữu lãnh thổ vô chủ. Các bằng chứng lịch sử của Trung Quốc về quyền phát hiện và chiếm cứ hiệu quả hai quần đảo vốn rất ít ỏi và không vững chắc. Trung Quốc chưa bao giờ chứng minh được một sự chiếm cứ thông thường, một sự quản lý hành chính hữu hiệu hay một sự kiểm soát chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho đến tận khi Thế chiến hai kết thúc.

Một trong những cách thể hiện ý chí thực thi chủ quyền đối với một lãnh thổ là thể hiện nó trên bản đồ hành chính của nhà nước. Việc các bản đồ cổ của Trung Quốc, trong đó có tấm bản đồ toàn lãnh thổ Trung Quốc công bố năm 1904 được thực hiện dưới thời nhà Thanh, không bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa là một bằng chứng mạnh mẽ cho thấy nhà nước Trung Quốc không coi các quần đảo này là một phần lãnh thổ của mình, không quản lý hành chính và không thể hiện ý chí chiếm hữu chúng.

Cho đến năm 1947, hầu hết bản đồ Trung Quốc đều thể hiện cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Chúng cho thấy luận cứ của Trung Quốc dựa trên quyền chiếm hữu lãnh thổ vô chủ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có đầy đủ các yếu tố vật chất và tinh thần, không đáp ứng được yêu cầu của luật pháp quốc tế. Đây đồng thời cũng là bằng chứng phản bác lại yêu sách của Trung Quốc đối với chủ quyền trên biển Đông theo bản đồ đường lưỡi bò mà họ gọi là”ranh giới lịch sử”, một khái niệm hoàn toàn không được luật pháp quốc tế công nhận.

So sánh với các bằng chứng của Trung Quốc, luận cứ của VN vững chắc hơn nhiều. Các tài liệu chính thức của nhà nước VN từ thế kỷ 17 như Đại Nam thực lục tiền biên (1600-1775), Toàn tập Thiên Nam thống chí lộ đồ thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam nhất thống chí (bộ sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876)... cho thấy từ thế kỷ 16, nhà nước VN đã thực thi liên tục chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.

Điều quan trọng là việc thực thi chủ quyền này diễn ra hoàn toàn không gặp bất cứ sự phản đối hay tranh chấp nào từ phía các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, và có đầy đủ cả yếu tố vật chất lẫn tinh thần.

Nguyễn Thái Linh
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên