07/01/2007 11:06 GMT+7

Thơ Hữu Đạo, tiếng hát của một thế hệ dấn thân

Ký của LÊ VĂN NUÔI
Ký của LÊ VĂN NUÔI

TTCT - Trong những năm 1968-1972, xã hội miền Nam nước ta chìm trong khói lửa chiến tranh. Người dân Sài Gòn sống trong tâm trạng lo âu, bất trắc của một đô thị tao loạn đầy bóng lính Mỹ và quân đội Sài Gòn.

JGyqudOl.jpgPhóng to
TTCT - Trong những năm 1968-1972, xã hội miền Nam nước ta chìm trong khói lửa chiến tranh. Người dân Sài Gòn sống trong tâm trạng lo âu, bất trắc của một đô thị tao loạn đầy bóng lính Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Tâm trạng đó được phản ánh phần nào qua một dòng văn chương và âm nhạc miêu tả thảm cảnh chiến tranh và than thân trách phận mình đã “sinh lầm thế kỷ”, hoặc mặc cảm cho đất nước mình là “nhược tiểu da vàng”.

Nhưng cũng vào thời điểm sau cuộc tổng tấn công - tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968 của cách mạng ở các đô thị miền Nam chưa giành được thắng lợi trọn vẹn, đã xuất hiện một phong trào đấu tranh đòi hòa bình, độc lập dân tộc, đòi tự do - dân chủ, đòi tự trị đại học... mà lực lượng chủ lực là sinh viên, giới trí thức, học sinh và thanh niên lao động.

Hữu Đạo

Tên thật: Nguyễn Sĩ Hiền, sinh năm 1950 tại Đồng Tháp. Bí danh: Ba Đình.

Bút hiệu: Đồng Tháp, Yên Thao, Rạch Gầm...

1965-1966: học Trường Pétrus Ký, tham gia phong trào học sinh năm 15 tuổi.

1968: được kết nạp vào Đảng CSVN, phụ trách tuyên huấn học sinh TP. Bị địch truy lùng gắt gao, anh rút vào hoạt động bí mật.

1970: anh vào Đảng ủy học sinh, chỉ đạo học sinh Sài Gòn - Gia Định.

1970-1972: thời kỳ sáng tác hăng, mạnh, có nhiều bài được anh em ghi nhớ.

Cuối 1972: bị địch bắt cùng Xuân Hương - hôn thê của anh.

1973: được trao trả ở Lộc Ninh.

1974-1975: học Trường báo chí T.ƯCMN. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, anh vượt Ba Thu, Đồng Tháp. Đơn vị anh đã có mặt đúng ngày 30-4-1975 để tiến vào quận 11, tiếp thu quận này. Làm bí thư quận đoàn và trưởng Phòng VHTT quận 11.

Vì bệnh cũ tái phát và công việc căng thẳng trong những ngày mới giải phóng thành phố, anh mất vì phù tim.

Tác phẩm: Sài Gòn 71, tập thơ (1971)

Ta đã lớn lên bên này châu Á, Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn xuất bản, 1971.

(Theo tuyển tập Tiếng hát những người đi tới do NXB Trẻ, báo Tuổi Trẻ, báo Thanh Niên xuất bản 1993)

Một dòng văn chương - âm nhạc mới đầy sức sống, nóng bỏng nỗi khao khát hòa bình và giục giã thế hệ trẻ hãy xuống đường, hãy lên đường giành lấy tương lai, đã xuất hiện ngay trong lòng cuộc chiến đấu trên đường phố của những người trẻ SVHS Sài Gòn.

Đó là hàng trăm bút nhóm, thi văn đoàn ở các trường trung, đại học với những cây bút tiêu biểu như Chánh Sử Trần Quang Long, Triệu Từ Truyền, Nguyễn Kim Ngân, Nhất Chi Mai, Lê Nhược Thủy, Thái Ngọc San..., đó là những bài ca truyền lửa như Hát cho dân tôi nghe, Hát từ đồng hoang, Tự nguyện... của đội ngũ các nhạc sĩ Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, Trương Quốc Khánh, Trịnh Công Sơn...

Trong những ngòi bút thơ ca, đặc biệt đã xuất hiện một nhà thơ ký tên Hữu Đạo, với một phong thái ngôn ngữ hào sảng, tràn đầy sự tự tin và tinh thần bất khuất của một dân tộc anh hùng:

Ta đã lớn lên bên này châu ÁVới ruộng đồng xanh lúa Cửu LongTa đã đi trong lửa đốt những thôn làngTa đã lớn bên nỗi hờn xâm lượcTa sống gượng với nhục nhằn mất nướcRồi hiên ngang bảo gạt lệ mà điNhững khổ đau sẽ chẳng ích gìKhi chẳng biết đun sôi bầu máu nóng...

Đây là đoạn đầu của bài Ta đã lớn lên của nhà thơ Hữu Đạo, bài thơ mà tôi cho rằng tiêu biểu cho phong cách thơ, cho khẩu khí thơ của Hữu Đạo; bài thơ gây ấn tượng sâu sắc và có sức thôi thúc mãnh liệt với thế hệ mười tám - đôi mươi chúng tôi vào thập niên 1970. Thế hệ những người trẻ đang mang áo trắng học đường nhưng lại sống trong khói lửa chiến tranh, sống trong khói đạn cay của những cuộc biểu tình, xuống đường chống Mỹ đòi hòa bình, độc lập dân tộc.

Ta đã lớn lên vang vọng tâm huyết của một người cầm bút trẻ tuổi 20 (Hữu Đạo sinh năm 1950 và sáng tác bài thơ này năm 18 tuổi) gửi đến bạn bè trang lứa ở miền Nam Việt Nam như một lời kêu gọi hãy xuống đường, hãy lên đường:

Hỡi những người vai rộng, tóc xanhĐời như hoa thắm nở trên cànhNhư chim giữa khoảng trời cao rộngKhinh những lồng son, lưới bủa quanhĐạp cả gông tù ta bước lênCờ ươm máu hận thề không quênTầm vông chuyển động mùa sông núiGiục lớp người đi phá xích xiềng...

(trích Ta đã lớn lên - thơ Hữu Đạo)

Những lời thơ này thẩm thấu vào tâm hồn một chàng trai tuổi 17 như tôi lúc ấy, đến nỗi giữa những cuộc mittinh hay trong những đêm “Hát cho đồng bào tôi nghe” của các nhạc sĩ phong trào sinh viên, tôi hay núp trong cánh gà sân khấu để đọc vang những lời thơ dữ dội này, như thúc giục công chúng và báo hiệu một cuộc xuống đường sắp bùng nổ.

Có lần, trong một đêm biểu diễn văn nghệ ở sân Trường đại học Khoa học Sài Gòn, vừa đọc xong bài thơ Ta đã lớn lên, tôi lẩn vào ngồi chung với khán giả SVHS thì bất ngờ một đàn anh của tôi, anh Võ Ba, vỗ vai tôi, thì thầm: “Cậu đọc thơ ai, hay nhưng nghe “tả” quá, anh ngồi nghe rợn cả người, nhưng mà lo cho chú em bị bọn mật vụ để ý!”.

***

Nhóm làm báo Tiếng Gọi Học Sinh, làm các tuyển tập thơ văn của học sinh sáng tác, gồm tôi, anh Lê Văn Triều, anh Nguyễn Văn Vĩnh... thỉnh thoảng nhận được bản thảo một bài thơ, một bài báo của Hữu Đạo gửi qua đưa tay của một anh em học sinh Pétrus Ký - những đoàn viên TNCS hoạt động bí mật ở trường này như Nguyễn Thanh Tân, Nguyễn Hữu Phước, Lê Văn Nghĩa... do anh Hữu Đạo phụ trách, chỉ đạo. Bài anh gửi thường đánh máy, ký nhiều bút hiệu như Hữu Đạo, Yên Thao, Rạch Gầm...

Năm 1971, chúng tôi tuyển những bài thơ hay của học sinh để in tuyển tập Ta đã lớn lênbên này châu Á - tựa tập thơ này lấy ý từ câu thơ đầu trong bài Ta đã lớn lên của Hữu Đạo. Trong tuyển tập này, thơ Hữu Đạo chiếm khoảng phân nửa, chứ không phải tất cả là thơ Hữu Đạo, như lời giới thiệu về anh trong tuyển tập Tiếng hát những người đi tới (do NXB Trẻ - báo Tuổi Trẻ - báo Thanh Niên xuất bản năm 1993).

***

Ngoài thơ, Hữu Đạo còn là một ngòi bút lý luận - phê bình về nghệ thuật làm báo, viết báo. Ngòi bút lý luận của anh có sức khái quát và định hướng cho phong trào làm báo - báo in typo, báo in ronéo giấy sáp, báo tường - đang nở rộ với hàng trăm tờ ở hàng chục trường trung học như Pétrus Ký, Gia Long, Cao Thắng, Trưng Vương, Bồ Đề, Lê Văn Duyệt...

Hữu Đạo đã viết một áng văn bất hủ là “Tuyên ngôn đoàn học sinh” (hiện thất lạc, tôi chưa tìm ra). Năm 1972, Hữu Đạo tổ chức cho ra một tập san lý luận, phê bình, sáng tác, lấy tên Làm Báo, với phần trình bày bìa 1 tập san bằng toàn chữ viết của anh và 2/3 bài đăng trong tập san này là của Hữu Đạo, dưới nhiều bút hiệu.

Thời gian này, tôi chỉ biết và ngưỡng mộ Hữu Đạo qua thơ, văn, chứ chưa hề gặp mặt anh, vì hai người hoạt động cách mạng ở hai cánh khác nhau, phải ngăn cách bí mật.

***

Rồi đến một ngày, tôi gặp được anh, nhưng không phải ở chiến khu, mà trong nhà tù Chí Hòa, nơi tôi bị địch bắt giam từ cuối năm 1971 và đúng một năm sau, nhà thơ Hữu Đạo cũng bị tống giam vào đây - ở nhà tù khổng lồ cao năm tầng, xây dựng theo hình bát giác trông như chiếc đèn kéo quân, có sức chứa đến năm, sáu ngàn tù nhân. SVHS bị bắt vào đây do biểu tình chống chính quyền Sài Gòn hoặc do có liên hệ với “Việt cộng”, bị giam làm hai nhóm: một nhóm ở phòng giam lớn khoảng 50 người và một nhóm khoảng 10 người gồm Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Ngọc Phương, Nguyễn Tấn Tài và tôi.

Không hiểu vì lẽ gì Hữu Đạo bị đưa vào giam chung phòng tôi. Chúng tôi giới thiệu nhau một cách ngắn gọn, nhỏ nhẹ; rồi lui về chiếc giường của mình, nơi ăn, ngủ, đọc sách, viết lách của mỗi người trong phòng giam đặc biệt rộng khoảng 25m2, không cửa nẻo, chỉ ngăn cách với lối đi bằng những rào song sắt trông cứ như những chuồng giam thú dữ. Hữu Đạo có đôi mắt to, sáng, ẩn sau đôi kính cận gọng đen to bản.

Gần một năm ở chung tù với anh, tôi được đọc nhiều bài thơ tình anh viết cho chị Xuân Hương, hôn thê của Hữu Đạo, bị địch bắt cùng anh, nhưng được trả tự do sớm và hằng tuần vào thăm nuôi anh ở Chí Hòa, tạo cảm hứng cho anh sáng tác “những bài thơ viết cho Xuân Hương”.

Năm tháng có bao giờ ghi hếtMừng vui, giận tủi cuốn theo đờiCòn em có bao giờ hiểu đượcTrăm mối lòng ray rứt không nguôi

...

Còn bầy cướp đứng giăng ngoài phốHết đêm nay, dài lại ngày maiGiấy bút, chợ buôn người bỡ ngỡDòng thơ tôi biết gởi về ai.

(Tâm sự - thơ Hữu Đạo)

Em ơi, hai đứa rất yêu nhauMà hạnh phúc sao chỉ là đuổi bắtCuộc sống nơi đây, tình yêu chân thậtSao chỉ đầy một giấc mơNhững gì thân mật như thơ cũng choán đầy bóng chúngCắt ngang nhịp tim, đục khoét dần sự sống...

(Đông xuân - thơ Hữu Đạo)

Tình riêng trong thơ Hữu Đạo lại phản ánh được tâm trạng yêu đương của thế hệ chúng tôi lúc ấy, thế hệ những người đang dấn thân vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước: yêu, chưa dám yêu, cưới, chưa dám cưới vì sợ kẻ thù bắt bớ, hành hạ cả người mình yêu để tạo áp lực, mua chuộc, ngăn cản bước chân của người chiến sĩ - như chúng đã từng làm với nhiều cặp tình nhân.

***

Trái tim Hữu Đạo còn dành cả một dòng thơ cho những người lao động nghèo khổ, những kẻ khốn cùng:

... Những bà mẹ suốt một đời lam lũvà những em thơ đói sữa khóc vùiHãy ngẩng đầu lên môi nở nụ cười...

(Ta đã lớn lên - thơ Hữu Đạo)

Hay một bài thơ độc đáo khác, bài Tim Việt Nam, tựa do tôi đặt, vì khi đang làm tuyển tập Ta đã lớn lên bên này châu Á, tôi nhận được bài thơ này gửi đến nhưng “không đề” nên tôi tự ý đặt tựa mà không có cách nào liên lạc để hỏi ý tác giả Hữu Đạo:

Sáng nay con ra phốthấy người nằm chết co ro vỉa hè giữa chợ đời lấn chenMá ơi,Nếu con vất được trái tim và bôi bùn lên ócthì đời con hạnh phúc biết bao nhiêu.

(Tim Việt Nam - thơ Hữu Đạo)

Hậu quả của những đòn tra tấn tù đày và kiệt sức với công việc bề bộn của những tháng đầu giải phóng Sài Gòn 1975, Hữu Đạo bị phù tim. Khi tôi hay tin chạy vào bệnh viện, buồn bã nhìn anh nằm thoi thóp rồi ra đi sau đó vài ngày ở tuổi 26.

Hữu Đạo ra đi khi còn quá trẻ, nhưng sự nghiệp sáng tác của anh thật đồ sộ so với tuổi đời. Dòng thơ ca của Hữu Đạo nghe như tiếng hát của cả một thế hệ những người dấn thân đi tới giành lấy tương lai, tiếng hát mãi còn vang vọng đến thế hệ mai sau.

12-2006

Ta đã lớn lên

Ta đã lớn lên bên này châu ÁVới ruộng đồng xanh lúa Cửu LongTa đã đi trong lửa đốt những thôn làngTa đã lớn bên nỗi hờn xâm lượcTa sống gượng với nhục nhằn mất nướcRồi hiên ngang bảo gạt lệ mà điNhững khổ đau sẽ chẳng ích gìKhi chẳng biết đun sôi bầu máu nóngTa đã lớn giữa quê hương tháng támLoa vang lời cách mạng một mùa thuTa đã vung gươm quyết vạch mây mùCho cả nước tiến lên đời tự chủNhững bà mẹ suốt một đời lam lũVà những em thơ đói sữa khóc vùiHãy ngẩng đầu lên môi nở nụ cườiVì hạnh phúc sẽ thơm đầy mật ngọtTa đã lớn với ba miền sôi sụcTrang sử hồng cuộc kháng chiến toàn dânĐã xa rồi tăm tối và khóc thanCủa những 80 năm chưa từng ngẩng mặtTa đã đi bên bạn bè son sắtGiữa mặt trời nắng gắt, giữa mưa dầmĐẹp vô cùng mơ ước tuổi xanhTuổi trẻ Việt Nam ngời ngời hi vọngHỡi những người vai rộng tóc xanhĐời như hoa thắm nở trên cànhNhư chim giữa khoảng trời cao rộngKhinh những lồng son, lưới bủa quanhMùa thu ơi mùa thuQuốc thù kêu kháng chiếnMùa thu tan mây mùTưng bừng sôi khói biếcĐạp cả gông tù ta bước lênCờ ươm máu hận thề không quênTầm vông chuyển động mùa sông núiGiục lớp người đi phá xích xiềngAi qua rừng núi Điện BiênAi xuống Hưng Tuyên, Đồng ThápSử hồng ta đã thơm mùi độc lậpĐã qua rồi mưa vùi gió dậpLạc Hồng ơi một bờ cõi huy hoàngĐất nước muôn đời hùng vĩCó sông Lô, núi NhịCó Vũ Quang bền chíVới Hà Giang, Uông Bí, Cao - Bắc - Lạng kiên cườngHàng vạn cánh tay, hàng vạn nẻo đườngNhững con người dãi nắng dầm sươngCơm dưa muối đã làm nên lịch sửMáu giặc đỏ nước sông Vàm CỏXác thù trôi lửa Nhật Tảo bừng sôiTừng bờ đê ngọn cỏTừng đồi núi chơi vơiCao như mối căm hờn giặc nướcChân đã rộn ràng bướcGiọt mồ hôi cũng ướtMái tóc già tần tảo những canh khuyaNhững nẻo đường xaNhững nẻo đường quaNhư rộn rã một mùa non sông mớiMùa lúa chín đồngMùi cơm mới xớiTa đã làm nên không chờ không đợiNghe gì trong tiếng gọiLửa quốc hờn vang reoNghe gì trong sương gieoƯớt đầm vai nghĩa sĩTa đã lớn lên rồi các anh các chịCác em thơ trong trẻo tiếng cười giònThành phố ta ơiNgời lịch sử trường tồn

1968

Tâm sự

Năm tháng có bao giờ ghi hếtMừng vui, giận tủi cuốn theo đờiCòn em có bao giờ hiểu đượcTrăm mối lòng ray rứt không nguôiHạnh phúc mới quay cuồng gió lốcLòng đau hơn dao cắt bao giờEm ơi vết thương đời máu uấtSao không ào chảy suốt trong thơ?Còn bầy cướp đứng giăng ngoài phốHết đêm nay dài lại ngày maiGiấy bút, chợ buôn người bỡ ngỡDòng thơ tôi biết gởi về aiTôi vẫn quen cuộc đời mưa nắngKhi lòng tôi vừa biết thương emTim nhân loại, mặt trời tỏa nắngCho tim mừng qua hết một đêm.

Tim Việt Nam

Sáng nay con ra phốthấy người nằm chết co ro vỉa hè giữa chợ đời lấn chenMá ơi, nếu con vất được trái timvà bôi bùn lên ócthì đời con hạnh phúc biết bao nhiêu.

Ký của LÊ VĂN NUÔI
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên