16/03/2012 00:53 GMT+7

Quản lý tiền công đức: tiến thoái lưỡng nan!

HÀ HƯƠNG thực hiện
HÀ HƯƠNG thực hiện

TT - Bộ VH-TT&DL vừa giao Viện Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật VN thực hiện đề án nghiên cứu quản lý tiền công đức trong các di tích, đền chùa, nơi thờ tự.

2po85POA.jpgPhóng to
Bỏ tiền cúng dường vào thùng công đức ở chùa Vĩnh Nghiêm, Q.3, TP.HCM trong dịp lễ tết - Ảnh: N.C.T.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, PGS.TS Lương Hồng Quang (phó viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật VN) nói:

- Hiện nay chúng ta có quá nhiều mô hình quản lý. Tiền công đức được tính toán như thế nào lại phụ thuộc mô hình quản lý đó. Hơn nữa, ở VN hiện nay, các loại hình di tích hết sức đa dạng và không ai biết con số thực chất là bao nhiêu, đầu ra đầu vào của một chu trình quản lý tài chính đều không có con số chính xác, cụ thể. Ở một số nơi có quy chế, tình trạng thu chi tiền công đức có rõ ràng hơn.

Hiện nay ai cũng biết số lượng tiền công đức rất lớn nhưng không ai nắm được, nên cũng không biết việc chia sẻ lợi ích được thực hiện như thế nào. Cũng từ đó mà xảy ra hiện tượng lợi dụng công đức để tư lợi, xuất hiện rất nhiều đền phủ tư nhân hay các “công ty” tôn giáo tâm linh. Hệ thống đền phủ tư nhân không ai đăng ký, không bị quản lý. Ai cũng biết nó có tồn tại nhưng không ai kiểm soát được nó cả.

Miếu Bà chúa Xứ An Giang thu tiền công đức mỗi năm hàng chục tỉ đồng, nhưng cơ chế quản lý của họ rất rõ. Trong khi đó, một số nơi ở phía Bắc, chính quyền địa phương nảy ra cơ chế khoán, tức là đặt ra định mức mỗi ngày thu được bao nhiêu, tháng thu về bao nhiêu theo kiểu “lời ăn lỗ chịu” của làm ăn kinh tế.

* Liệu chúng ta có phương án nào khả dĩ để có thể quản lý tiền công đức đang lâm vào tình trạng mất kiểm soát như hiện nay?

- Nhà nước đang đứng vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Bởi vì về nguyên tắc phải được công nhận một đơn vị sản xuất kinh doanh hay đứng trong một danh mục nghề nghiệp mới có thể thu thuế. Nếu công nhận nó là một nghề thì vô hình trung đã khuếch trương nó lên. Đây thực chất là một nghề phi chính thức. Trong khi đó về nguyên tắc, những nơi có nguồn thu thì phải đóng thuế.

Cũng chính việc thu thuế lại đẻ ra rắc rối mới là mâu thuẫn giữa các đối tượng sở hữu. Do chúng ta có quá nhiều chủ thể quản lý nên nếu áp dụng một hình thức đánh thuế thì ai sẽ là người đóng thuế, ai sẽ là pháp nhân đóng thuế, các vị trụ trì cơ sở tôn giáo tín ngưỡng, ban quản lý di tích hay chính quyền địa phương? Nhưng từ những hiện tượng này có thể thấy tiền công đức là cái máy đẻ ra tiền. Tuy nhiên nó cũng là nguyên nhân của sự xung đột lợi ích. Không ít người nhận ra việc kinh doanh tôn giáo tín ngưỡng mang đến nguồn lợi cực kỳ lớn.

* Đề án nghiên cứu này sẽ gặp khó khăn gì, thưa ông?

- Cái khó hiện nay là quan điểm xử lý vấn đề và sự vào cuộc của các bên liên quan. Công đức là vấn đề nhạy cảm và chưa hề được xử lý ở bình diện quản lý nhà nước. Dù ở mức độ thu thuế hay ở mức độ minh bạch hóa các nguồn tiền công đức thì cũng cần phải xác định rõ bản chất câu chuyện quản lý ở đây là không làm khó dân mà tạo hành lang pháp lý cho mọi tổ chức, cá nhân khi công đức, hay các cơ sở nhận công đức đều rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình, góp phần bảo tồn di tích và tổ chức lễ hội trên một tinh thần minh bạch, hiệu quả, cân bằng lợi ích của các bên liên quan. Có thể có những lộ trình và bước đi thích hợp, lấy ý kiến của các cấp, các ngành, của các chủ thể quản lý, tạo sự đồng thuận chung của toàn xã hội về vấn đề này.

HÀ HƯƠNG thực hiện
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên