24/10/2007 18:00 GMT+7

Chè Tân Cương

Theo NGUYỄN TRỌNG HUẤNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Theo NGUYỄN TRỌNG HUẤNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

“Chè Thái - Gái Tuyên” vốn là câu cửa miệng lưu truyền từ lâu trong cộng đồng “những người thích lang thang”.

El5d4EEl.jpgPhóng to

Vườn trà

“Chè Thái - Gái Tuyên” vốn là câu cửa miệng lưu truyền từ lâu trong cộng đồng “những người thích lang thang”.

“Gái Tuyên” thì đành một lẽ. Có không ít hoa hậu, người mẫu, tiếp viên hàng không v.v… vào đời từ thành phố bên sông Lô. Không chỉ sông Lô đẹp mà “Gái Tuyên” cũng phải thế nào thì ông Văn Cao mới viết được “Trường ca sông Lô” hay đến như vậy.

“…Ai qua bến nắng vàng lặng nhìn màu nước sông Lô trôi…”.

“Ai” trong lời ca phải chăng là một kiều nữ xứ Tuyên, hậu duệ nhiều đời của các cung tần mỹ nữ nhà Mạc, mà rất có thể Văn Cao đã thoáng gặp trên bến nắng vàng một chiều kháng chiến? Xin nhớ rằng, năm ấy, chàng nhạc sĩ tài danh cũng chỉ mới ngoài đôi mươi, và theo một số nhà nghiên cứu địa phương thì khá nhiều cung tần mỹ nữ theo chân nhà Mạc lưu vong đến đất này (?).

“Gái Tuyên” còn là câu chuyện dài, hẹn vào dịp khác.

Lần này, chúng ta lên thăm Thái Nguyên, thăm một vùng trà nổi tiếng làm nên tiếng tăm “Chè Thái”.

“Chè” và “Trà” là hai thứ khác nhau. Một chỉ nguyên liệu, một chỉ thành phẩm.

Cây chè (Camellia Sinensis) vốn là một giống cây hoang dại trong những cánh rừng phía Nam lục địa châu Á, trải từ Ấn Độ, Sri Lanka sang Việt Nam, Trung Quốc v.v… Những cây chè cổ ở Suối Giàng (Lào Cai) hay Cao Bồ (Hà Giang) v.v… thuộc giống chè shan tuyết cao khoảng 15-20m, thường mọc ở những độ cao trên 1.200m, khi hái phải bắc thang. Năm 1935, các lái buôn người Anh còn bắt gặp những cây chè như thế ở vùng Assam, Đông - Bắc Ấn Độ cao đến hơn 30m. Trung Quốc, có lẽ là nước uống trà vào loại hàng đầu thế giới, vậy mà đặc biệt, người ta không tìm thấy cây trà hoang nào ở nước này.

Nhân loại thuần dưỡng giống cây quý này đã hàng ngàn ngàn năm. Trong các thức uống được ưa chuộng, “trà” (Tea/Thé) là một thế giới.

BMe8kr1t.jpgPhóng to I2WjzpBs.jpg
Đường trong làng -hoa dại với mùi rơm Đổ bóng
uc2YSKRa.jpgPhóng to n5Xbr80s.jpg
Một đóa trà Bọ trà
Ws3LgRjZ.jpgPhóng to whxnWquJ.jpg
Nụ trà Gốc trà cổ
YZwSDR66.jpgPhóng to hVNtZjlH.jpg
Núi trà Sàng trà

Không như rượu và cà phê, trà không chỉ là một thức uống mà còn được xem là một dược thảo. Người Nhật gắn trà với thiền cùng nhiều nghi lễ giúp cân bằng tiết tấu cuộc sống nội tâm. Người Trung Hoa coi trà là một trong những lạc thú thanh cao dành cho tao nhân mặc khách. Có lẽ vì vậy mà họ đã chế tác ra rất nhiều loại trà danh tiếng truyền thụ từ nhiều đời. Tác phẩm thành văn bàn về trà, cổ nhất có lẽ là Trà kinh của Lục Vũ đời Đường, người được tôn vinh là “trà thần”, cũng như “trà ca” của Lô Đồng, người được đời sau xưng tụng là “Trà thánh”.

Ở Việt Nam, người đầu tiên, và đến nay có lẽ là duy nhất, luận về trà một cách công phu chưa thấy ai ngoài Vũ Thế Ngọc trong cuốn Trà kinh của mình (East Institute Press. California 1987 & NXB Văn Nghệ - 2006).

Chè là một loại cây cực kỳ khó tính. Gọi là chè Thái Nguyên nhưng chất lượng chè không phải vùng nào cũng giống nhau. Đã từ lâu, giới thưởng trà truyền tụng về một địa danh thường cung cấp một loại trà nổi tiếng, trà Tân Cương. Nương theo tiếng tăm ấy, chúng tôi đã lần đến tận nơi để mắt ngắm tay sờ cho bằng được.

Người hướng dẫn chúng tôi là một nhà báo nữ đang làm luận án thạc sĩ về cây chè. Gia đình chúng tôi ghé thăm là gia đình vợ chồng Thắng - Hường, xóm Hồng Thái, còn trẻ nhưng đã khá nổi tiếng.

0w9T4Fur.jpgPhóng to Ya6m6Cx2.jpg
Tuyển trà

Thương hiệu

Cây chè Thái Nguyên, đặc biệt vùng Tân Cương (một xã ở ngoại thành Thái Nguyên) được ông Đội Năm, tên thật là Võ Văn Thiệt di thực về vùng này khoảng năm 1920-1922. Vườn chè cổ vẫn còn, nay đã 87 tuổi.

Chè là một giống cây rất nhạy cảm. Ngay cả một cây xoan (sầu đông - sầu đâu) mọc ở trong vườn, hương vị của những cây chè dưới gốc đã khác. Người Tân Cương bón chè bằng phân vi sinh, thuốc đuổi sâu chế biến từ cây khổ sâm. Chè phải được hái từ tinh sương đến giữa Ngọ. Dụng cụ đựng chè phải bằng sọt tre, hái khoảng nửa giờ phải mang chè vào lán. Chè đựng bằng bao ni lông và phơi nắng lâu rất dễ bị ôi chè, phẩm cấp giảm. Khi sao chè, kỵ nhất là mùi nước hoa, đặc biệt mùi dầu cù là. Ngày xưa, người Tân Cương chỉ sao chè bằng tay, sao giỏi chỉ được 5kg/ngày, một lò sao lăn được 2kg/giờ.

Bà Sang, mẹ anh Nguyễn Văn Thắng, ông chủ trẻ đang tiếp chúng tôi cho biết, tên bà cụ đã là một nhãn hiệu rồi. Dân Tân Cương chỉ sản xuất chè búp khô, không nhãn hiệu. Hỏi sao không chọn thương hiệu, quảng bá để bán ra thị trường? Ông chủ trẻ cười cười: “Không đủ hàng để bán, quảng cáo mà làm gì!”.

Người Tân Cương bằng lòng với cái mình đang có. Có cải tiến thì cũng chỉ đến đặt Trung Quốc cung cấp cho một loại lò sao cỡ nhỏ, mà cả thôn thì được bao nhiêu lò? Cả tỉnh Thái Nguyên hàng năm sản xuất được chừng 90.000 tấn chè khô. Riêng Tân Cương đã 1.000 tấn. Giá chè tươi bình quân trong tỉnh là 3.500 đồng/kg, riêng chè Tân Cương 10.000 đồng/kg. Cả xã Tân Cương có khoảng 400ha chè. Riêng gia đình anh Thắng có khoảng 0,8ha, thu nhập bình quân chừng trên dưới 100 triệu đồng/năm.

Anh Thắng cho biết chè ngon trong năm là chè thu hoạch vụ Xuân, mùi hương cốm chè Tân Cương không nơi nào học được. Đến đây thì chúng tôi hiểu rằng có được một ký chè Tân Cương thứ thiệt để uống không phải dễ. Người viết bài này cũng đã thử qua trà shan tuyết Suối Giàng, shan tuyết Cao Bồ, Hà Giang, thậm chí mò sang Hàng Châu thử trà Long Tỉnh, trà Ninh Ba, Ô Long - Đài Loan, phải nhận rằng, trà Tân Cương quả thực danh bất hư truyền.

Theo NGUYỄN TRỌNG HUẤNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên