Phóng to |
Muốn vậy cuộc cải cách sắp tới phải khắc phục được những nguyên nhân khiến nền giáo dục nước ta lạc hậu, thiếu trung thực và kém lành mạnh.
Bớt áp đặt
Cơ chế quản lý điều hành giáo dục hiện nay vẫn nặng tính chất quan liêu bao cấp. Mọi việc được quyết định ở cấp trên, được chỉ đạo bằng mệnh lệnh hành chính hay phong trào. Cấp dưới phải tuyệt đối chấp hành. Khi cấp trên muốn đạt chỉ tiêu cao nhất, cấp dưới phải cố đạt 100% hoặc xấp xỉ tỉ lệ đó, bất kể hoàn cảnh và điều kiện như thế nào.
Chính những áp lực do cơ chế này tạo ra đã dẫn tới “bệnh thành tích”, thể hiện rõ qua hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, “bằng thật học giả” và kết quả cao chót vót của các kỳ thi. Cơ chế quản lý điều hành đã làm nền giáo dục trở nên thiếu trung thực.
Khi “bệnh thành tích” kết hợp với nạn tham nhũng và tiêu cực, giá trị đích thực của giáo dục càng bị tổn hại nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, cơ chế này tạo nên sự độc quyền cung cấp học vấn theo lối áp đặt từ trên xuống. Cả nước áp dụng duy nhất một bộ sách giáo khoa (SGK) do Bộ GD-ĐT ban hành. Giáo viên chỉ được sử dụng cuốn SGK duy nhất đó để giảng dạy theo chỉ đạo “SGK là pháp lệnh”.
Sự chỉ đạo này biến giáo viên thành công cụ thuyết minh SGK, hạn chế mọi khả năng sáng tạo của họ, dẫn tới tình trạng “thầy đọc trò chép” để học sinh học thuộc lòng như vẹt. Đổi mới dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên rất khó xoay xở vì vẫn phải bám sát SGK.
Mặc dù bộ tuyên bố không coi SGK là “pháp lệnh” nữa, kêu gọi “nói không với đọc chép”... nhưng lại phát hành sách Chuẩn kiến thức - kỹ năng để làm “pháp lệnh” thay cho SGK, mọi sự vẫn nguyên như cũ.
Cơ chế này cần được tháo gỡ bằng cách giảm bớt những chỉ tiêu, quyết định của cấp trên áp đặt cho cấp dưới; trao quyền tự chủ và tự quyết định cho những người trực tiếp làm việc ở cơ sở mà quan trọng nhất là giáo viên.
Tránh lẫn lộn chức năng
Việc Đảng dự kiến “sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới” cho thấy tính cấp bách của vấn đề.
Chương trình học hiện hành (sản phẩm của cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông vừa mới hoàn thành) có rất nhiều thiếu sót và nhược điểm đã bị xã hội phê phán: quá tải đối với học sinh nhưng lại kém hiệu lực, nặng tính hàn lâm khoa cử mà nhẹ tính thực hành, thiếu gắn kết và ứng dụng vào đời sống...
Các thiếu sót và nhược điểm đó đều có chung một nguyên nhân: chương trình được xây dựng thiếu cơ sở khoa học. Chương trình của mỗi môn học được giao cho các chuyên gia của môn học đó soạn thảo mà thiếu sự chủ trì của các nhà giáo dục chuyên ngành phát triển chương trình học.
Bởi thế, các nguyên lý của ngành khoa học này không được áp dụng trong việc xây dựng chương trình học đó, nên mọi mục tiêu giáo dục đáp ứng yêu cầu của cuộc sống đều bị bỏ qua.
Bên cạnh đó còn có sự lẫn lộn về chức năng giữa chương trình học với SGK. Quán triệt triết lý và các nguyên lý giáo dục, chương trình học vạch rõ tôn chỉ của nền giáo dục, mục đích của từng cấp học và mục tiêu của từng môn học. Từ đó, chương trình quy định nội dung các môn học (với tổng thời gian dành cho nó), chỉ dẫn các phương pháp dạy học và cách thức đánh giá trình độ học sinh.
Chương trình học chính là văn kiện pháp lý để cung cấp cho giáo viên thực hiện, để quản lý giáo dục và tổ chức thi cử. Tuy nhiên, ở nước ta chương trình học chỉ được dùng làm đề cương biên soạn SGK, rồi trao luôn chức năng của chương trình học cho SGK khi nó được coi là “pháp lệnh”.
Sự lẫn lộn này rất tai hại vì nó ràng buộc giáo viên vào một cuốn SGK duy nhất, mà lẽ ra họ chỉ phải thực hiện đúng chương trình, còn sử dụng SGK nào thuộc về quyền lựa chọn của họ.
Để nghiên cứu khoa học giáo dục dẫn đường Nghiên cứu phần nói về giáo dục trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần XI, đối chiếu với nghị quyết của đại hội trước và đối chiếu với thực trạng giáo dục đang diễn ra, người dân không khỏi băn khoăn. Dường như chúng ta có thừa chủ trương đúng, mục tiêu tốt đẹp nhưng còn cần một bộ khung pháp lý và phát triển một nền tảng triết lý tinh thần phù hợp, bảo đảm cho việc thực hiện những chủ trương và mục tiêu ấy. Vấn đề bây giờ là làm sao rút ngắn khoảng cách giữa mục tiêu và hiện thực. Thực tế chúng ta thiếu cơ sở lý thuyết cho những cải cách giáo dục, không có đội ngũ chuyên gia dẫn đường cho cải cách nên mọi việc chỉ làm theo quán tính và kinh nghiệm, dẫn đến nhiều dự án tốn kém mà không hiệu quả. Chúng ta cũng thiếu những nghiên cứu thật sự nghiêm túc về khoa học giáo dục. Nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tế những năm gần đây như hiện tượng thương mại hóa giáo dục, tham nhũng trong giáo dục, bạo lực học đường... cần được khảo sát và phân tích một cách thấu đáo với những dữ liệu đầy đủ để tìm hướng khắc phục. Nhiều vấn đề trọng đại như quy hoạch tổng thể hệ thống giáo dục, đảm bảo chất lượng giáo dục... cần được quyết định trên cơ sở nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc. Nghiên cứu về khoa học giáo dục để cung cấp dữ liệu cho bản vẽ thiết kế ngôi nhà giáo dục. Thiếu đầu tư cho khoa học giáo dục chẳng khác nào xây ngôi nhà theo một bản vẽ chỉ dựa trên ước muốn và tưởng tượng. Ở Hoa Kỳ, Viện Nghiên cứu khoa học giáo dục là một đơn vị được thành lập theo một đạo luật của quốc hội, viện trưởng do tổng thống trực tiếp bổ nhiệm với sự tham vấn và chấp thuận của thượng viện, tức là nhân sự này được quyết định ở cấp cao nhất về mặt lập pháp và hành pháp của một quốc gia, cho thấy Chính phủ Hoa Kỳ coi trọng như thế nào tầm vóc lớn lao và ý nghĩa quan trọng của việc phát triển khoa học giáo dục. Sứ mạng của viện này là cung cấp cho giới lãnh đạo quốc gia sự hiểu biết và kiến thức cơ bản rộng rãi về giáo dục, từ cấp mầm non cho đến giáo dục đại học, cũng như mang lại cho các nhà nghiên cứu, các nhà làm chính sách, các nhà giáo dục, phụ huynh, sinh viên và công chúng những thông tin đáng tin cậy về toàn bộ hoạt động giáo dục. Trung Quốc cũng có hàng trăm cơ quan nghiên cứu như vậy. Trong bối cảnh thực tiễn của VN hiện nay, việc xem xét kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng và phát triển khoa học giáo dục nhằm mở rộng tầm nhìn, củng cố chiến lược hoạt động của các tổ chức nghiên cứu về khoa học giáo dục ở VN để phục vụ việc đổi mới giáo dục là một việc cần thiết và cấp bách. Nghiên cứu khoa học giáo dục, đặc biệt là nghiên cứu về giáo dục quốc tế, rất cần được đẩy mạnh. Nghiên cứu khoa học giáo dục phải đi trước một bước để dẫn đường cho cải cách, để giảm bớt cái giá phải trả cho “thử và sai”, vì cái sai trong giáo dục có thể di hại cho cả đời người, cho cả dân tộc. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận