Chiếc đu - Câu chuyện lạ lùng của một thứ đồ chơi

PHẠM PHONG (*) 26/05/2023 05:44 GMT+7

TTCT - Sau tất cả những rung lắc đu đưa vượt thoát và an ủi trên chiếc đu, mọi sự lại đâu vào đấy. Người ta gọi đánh đu là trò chơi của lừa mị.

Một quá khứ bất ngờ của chiếc đu

Xưa thật là xưa, trước khi bước vào những công viên và sân chơi của đô thị thế kỷ 20, bạn có biết chiếc (xích) đu từng là một công cụ có tính nghi thức để chữa lành, trừng phạt, và hoán đổi?

Chiếc đu mang lại cảm giác tự do, vượt thoát tạm thời.

Chiếc đu mang lại cảm giác tự do, vượt thoát tạm thời.

Thông qua những chuyển động lặp đi lặp lại đến chóng cả mặt, ngày ấy động tác đánh đu được dùng để tôn vinh các vị thần và các "cá thể" huyền hoặc, để xua đuổi ma quỷ, để làm nguôi đi thôi thúc muốn tự tử, để chữa lành những cảm xúc ốm o, để thể hiện sự thống trị về tình dục, và để tra tấn những kẻ bị cáo buộc đã thực hành những trò tà ma huyền bí.

Chiếc đu hóa ra đã xuất hiện ở những chốn không ngờ nhất: tại các festival đánh đu của Hy Lạp cổ, trong các bích họa hang động Ấn Độ hồi thế kỷ thứ 5, trên những bức tranh cuộn đời Tống của Trung Quốc, trên những bức tranh thế kỷ 18 của người Hindu và Punjab - vẽ phụ nữ vui sướng đánh đu trên không trung, áo quần phần phật.

Chiếc đu có trong lễ mừng năm mới Nowruz của người Iran - người ta đánh đu để bắt chước cung cách Shah Jamšīd huyền thoại cưỡi cỗ xe xuyên không.

Chiếc đu vào đến cả hoàng cung Thái thế kỷ 18, khi Rama I cho dựng cả một phiên bản khổng lồ của nó.

Chiếc đu có trong những tác phẩm văn học và triết học phương Tây: Friedrich Nietzsche, James George Frazer, Sigmund Freud, Johan Huizinga đều từng viết về nó.

Lắm công dụng u ám

Câu chuyện của chiếc đu vì thế không còn là câu chuyện của một đồ vật. Đó là câu chuyện của cơ thể con người khi đang chuyển động, của tâm lý con người trong chuyển động.

Trong tiếng Hy Lạp cổ điển, từ "aiora" vừa mang nghĩa là chiếc đu vừa là cái thòng lọng thắt cổ. Theo một phiên bản của thần thoại Hy Lạp, thần Dionysus dạy cho Icarius làm rượu nho. Icarius mang mẻ rượu mình làm được đãi mấy tay bạn chăn cừu. Đám chăn cừu uống say đến nỗi họ nghĩ họ bị đầu độc. Thế là họ giết Icarius rồi vùi xác ông dưới một gốc cây. 

Con gái của ông là Erigone tìm thấy thi thể cha mình. Cô khóc thương cha rồi treo cổ tự vẫn, xác đu đưa ngay bên trên chỗ chôn Icarius. Tức giận, thần Dionysus phù phép lên thành Athens, khiến trinh nữ thành ấy lũ lượt nối nhau tự treo cổ.

Trích đoạn bức tranh Thanh minh thượng hà đồ, vẽ cảnh đánh đu bên sông vào tiết Thanh minh, họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ đời nhà Tống.

Trích đoạn bức tranh Thanh minh thượng hà đồ, vẽ cảnh đánh đu bên sông vào tiết Thanh minh, họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ đời nhà Tống.

Theo tác giả Gaius Julius Hyginus từ thế kỷ thứ 1, để thoát khỏi lời nguyền, người Athens làm ra cái đu: họ ngồi lên một miếng ván treo vào cành cây bằng dây thừng, và đu. Cơ thể họ khi ấy sẽ đung đưa trong gió y như Erigone treo cổ. Cái đu vậy là đã trở thành một vật kỳ diệu, một thiết bị giải lời nguyền.

Thế rồi theo thời gian, việc đánh đu lại có thêm công dụng trừng phạt, thí dụ như khoảng thế kỷ thứ 15, những người bị tố là phù thủy sẽ bị bỏ trong bao bố, treo lên và cho đu đưa qua lại. Bạn biết đấy, ngay cả chủ động đánh đu thì được một lúc ta cũng xây xẩm mặt mày nữa là bị nhét vào bao tải.

Đánh đu không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đấy hóa ra cũng là một công dụng: vào thế kỷ thứ 18, các bác sĩ châu Âu và Mỹ cho rằng việc toát mồ hôi và nôn ói khi đánh đu có thể chữa bệnh.

Hù dọa cũng là một công dụng của chiếc đu: những chiếc xích đu ma ám tự mình đu đưa thường có trong các phim kinh dị và có mặt tại những công viên trò chơi của thế kỷ 20.

Công dụng bất ngờ nhất của chiếc đu là dùng trong nghi thức các buổi lễ, do nó chứa đựng các yếu tố đối nhau chan chát: lên/xuống, trời/đất, âm/dương…

 Nhà nhân chủng học Frazer từng mô tả 21 ví dụ của "đánh đu nghi lễ" ở Nepal, Hàn Quốc, Indonesia, Hy Lạp, Pakistan, Borneo...; có nơi đu cao hơn để cây lúa mọc cao hơn, có nơi đu mạnh để tẩy gột tà ma, có nơi để chúc mừng…

Nhưng công dụng sâu xa hơn của trò đánh đu chính là hoán đổi. Khi "ếm" thần chú dao động lặp đi lặp lại kia lên chúng ta, trò đánh đu khiến ta phải nghĩ lại cái thế giới mà ta vẫn biết lâu nay, với những nhịp điệu và trật tự đã "vững như bàn thạch" của thế giới ấy. 

Đánh đu vì thế không phải chỉ để cho vui, mà để mở ra những con đường mất phương hướng, bước vào những không gian "nổi loạn".

Tranh Cái đu (The Swing, 1712), họa sĩ Jean-Antoine Watteau.  Nguồn: Wikimedia

Tranh Cái đu (The Swing, 1712), họa sĩ Jean-Antoine Watteau. Nguồn: Wikimedia

Tâm lý học người đánh đu

Để dọa, để phạt, để chơi, để chữa bệnh còn hiểu được, nhưng để dùng trong nghi thức của các ngày lễ thì sao? Cũng như trong thần thoại về tình yêu và cái chết - với mọi thứ luôn bắt đầu từ một thôi thúc không sao kiềm chế, một sức mạnh "muốn xé rào", tạo nên một sự mất phương hướng cả về đạo đức lẫn cảm xúc - trò đánh đu cũng mang trong mình một thôi thúc kiểu ấy.

Đó có thể là thôi thúc muốn tự tử khi các trinh nữ thành Athens xa xưa ngồi lên cái ghế đu và ngỡ như mình đang chui đầu vào dây thòng lọng.

Đó có thể - như phân tâm học của S.Freud nói - là một thôi thúc muốn có được cảm giác dễ chịu, bằng những động tác lặp đi lặp lại với cơ thể như cắn móng tay hay đánh đu qua lại đến mụ mị đầu óc.

Đó cũng có thể là thôi thúc muốn giải phóng thân phận, dù chỉ tạm thời.

Nhưng đã là thôi thúc kiểu "xé rào" thì cũng chỉ nên mang tính tạm thời, cho nên khác với đánh đu ở công viên ngày nay mà trẻ con thay nhau chơi cả ngày, ngày xưa đánh đu như một nghi thức trong dịp lễ, chỉ diễn ra vào thời gian và không gian nhất định.

Ở Trung Quốc, không gian ấy là một khu vườn có hàng rào, ở đó các bà vợ, các nàng thê của những gia đình đời Thanh giàu có gặp nhau và đánh đu. Bằng đánh đu, địa vị của họ đảo ngược tạm thời: kẻ vốn ở thấp giờ có lúc lại là cao nhất; và ngược lại.

Trong hội đánh đu Akha ở bắc Thái Lan, phụ nữ ăn vận cho đẹp rồi đánh đu. Mỗi năm vài ngày như thế, họ chỉ có vui sướng tung bay, không phải nghĩ tới heo gà, ruộng đồng, gánh nước. Hết ngày hội, mọi người lại trở về với nghĩa vụ gia đình. Sau tất cả những rung lắc đu đưa vượt thoát và an ủi kia, mọi sự lại đâu vào đấy. Người ta gọi đánh đu là trò chơi của lừa mị.

Xích đu khổng lồ hay Sao Chingcha - một công trình kiến trúc tôn giáo ở Phra Nakhon, Bangkok, Thái Lan. Nó được sử dụng trong nghi lễ Bà La Môn. (Ảnh: www.sawasdeetuktuk.com/)

Xích đu khổng lồ hay Sao Chingcha - một công trình kiến trúc tôn giáo ở Phra Nakhon, Bangkok, Thái Lan. Nó được sử dụng trong nghi lễ Bà La Môn. (Ảnh: www.sawasdeetuktuk.com/)

Ta không lấy làm lạ khi nhìn lại suốt lịch sử của trò đánh đu, người chơi chủ yếu là phụ nữ. Có một sự hoán đổi giới tính tạm thời: khi bay lên tít trên cao, người phụ nữ (như) chiếm một vị trí cao hơn, thống trị hơn, trút được bao nhiêu ràng buộc về thể chất và xã hội. 

Trong cái phút ấy, đánh đu là một sự giải thoát về cảm xúc. Phần nào giống như thi ca là nơi cho người ta tìm chỗ khuây khỏa, cái đu cũng là một thứ mời mọc người ta đến trú ẩn khỏi những bão táp chính trị, những vai trò nặng nề, và những bi kịch cá nhân.

Đã làm người là phải giãi bày. Con người còn dùng chiếc đu như một cái máy đánh nhịp để nương vào đó ngâm câu thần chú. Trong những festival cổ điển của Hy Lạp và vùng Livonia, những cuộc đánh đu thường đi kèm với ngâm ngợi và nhảy múa. Sự kết hợp này có hai tác dụng quan trọng:

Thứ nhất, người đánh đu dốc được thành lời những ẩn ức khó nói. Tại lễ hội Teej (Ấn Độ), Akha (Trung Quốc), Swings (Tây Ban Nha), các cô gái dùng nhịp lên xuống của chiếc đu mà hát lên những thắc mắc về nạn phân bổ công việc thiếu công bằng, về phân chia tài sản thừa kế không đồng đều, về nỗi lo sợ bị vị hôn phu tương lai lừa dối, về tình trạng hôn nhân đã bị sắp đặt. 

Tuy mang màu sắc của lễ hội (và chỉ hát trong thời gian diễn ra lễ hội), lời những bài hát này không được tích cực cho lắm, thậm chí có bài còn ước mong được tự tử.

Thứ hai, việc vừa đánh đu vừa ca hát giúp hình thành những cộng đồng có chung trải nghiệm. Còn gì "chung" hơn là đám phụ nữ trang điểm, ăn vận đẹp và cùng nhau đánh đu, ca hát. Trong lúc hát, thê thiếp các gia đình giàu có của Trung Quốc phong kiến có thể hòa giọng cùng nhau, ít nhất là một lúc, và nhìn ra được cuộc sống bên ngoài bốn bức tường vẫn quây lấy họ.

Một kết thúc (hóa ra) có hậu của trò đánh đu

Lịch sử của chiếc đu là một chương bị lãng quên trong lịch sử nhân loại. Lịch sử ấy được đan dệt bằng thần thoại lẫn các nghi thức lễ lạt. 

Và dù ở bất kỳ đâu, trò đánh đu cũng có chung đặc điểm: trải nghiệm đu đưa đều đều tới tới lui lui khiến cho ta "vừa sờ sợ vừa thinh thích", được lên cao nhìn mọi thứ bằng một con mắt khác, được nhầm lẫn rằng mặt đất cũng chuyển động, được cảm giác thoát khỏi trọng lực và lề thói ngăn nắp của trần gian.

"Ba cô gái trên xích đu". Sơn dầu trên vải của John George Brown (1868)

"Ba cô gái trên xích đu". Sơn dầu trên vải của John George Brown (1868)

Trải nghiệm ấy thú vị quá nên chẳng mấy chốc chiếc đu không còn gánh vác những nhiệm vụ gốc nghiêm trang. Nó không chỉ có mặt trong những dịp lễ tết mà bước vào tràn lan các sân vườn, công viên, trở thành một thiết bị để mơ mộng, một nơi để yên tĩnh và thư giãn giữa nhộn nhạo ngày thường. Ai cũng có thể dùng nó mà "thoát khỏi mình" một chốc, vào bất kỳ lúc nào trong ngày, phổ biến tới mức trong lúc đu đưa chẳng còn ai tự hỏi: "Sao mình lại đến đu đưa?".

Đến được với (trẻ con nhà) chúng ta ngày nay, trong các sân chơi, chiếc đu đã đi một chặng đường dài và quanh co. Lần lại con đường đó cũng khó khăn, và thương thay, ta thấy nó hôm nay gần như vẫn còn giữ nguyên hình dạng từ thời cổ, đâu đâu cũng có, nhưng người lớn đi qua gần như không để mắt tới nữa. 

Có lẽ vật gì bị người lớn bỏ rơi cũng thường được cứu chuộc bởi bàn tay tiếp quản của trẻ con. ■

(*) Lược dịch từ bài viết của Javier Moscoso trên Aeon

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận