Tỉ giá và người nghèo

NGUYỄN VẠN PHÚ 15/12/2013 05:12 GMT+7

TTCT - Hai gia đình ở sát nhau nhưng hoàn cảnh khác nhau. Gia đình ông A dành dụm được chừng 2 tỉ đồng, dự trù sang năm cho con đi du học ở nước ngoài.

Phóng to
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh ảnh hưởng của tỉ giá lên sự bất bình đẳng trong xã hội - Ảnh: L.N.Minh

Gia đình ông B nghèo hơn chỉ tiết kiệm được 20 triệu đồng, cũng dự trù sang năm dùng để cho con đi học đại học tư trong nước. Cả hai gửi tiền vào ngân hàng vì năm đó lãi suất đang rất cao, chừng 20%/năm. Năm sau, tiền ông A lên thành 2,4 tỉ đồng, tiền ông B lên thành 24 triệu đồng.

Cả năm đó tỉ giá hầu như không thay đổi nên ông A đổi được thành 100.000 đôla cho con đi du học mà vẫn dư ra một khoản lớn. Trường con ông B vì học phí tính bằng tiền đồng nên đã điều chỉnh theo lạm phát, học phí thay vì 20 triệu đồng nay đã tăng lên thành 30 triệu đồng, ông B méo mặt vì hụt một khoản không nhỏ.

Câu chuyện trên chỉ là giả định với những con số cố ý làm tròn cho dễ hình dung. Trong bối cảnh con số thống kê ở Việt Nam bị chê là thiếu tin cậy, tốt nhất là dùng cách “tính rợ” của dân gian. Tính nhẩm kiểu như trên cũng cho ta thấy: khi lạm phát cao mà tỉ giá không điều chỉnh theo tương ứng thì tỉ giá đó có lợi cho những ai có liên quan đến ngoại tệ và có hại cho những ai chỉ biết dùng tiền đồng.

Gia đình ông C chuyên ăn thịt bò ngoại nhập dù đắt hơn thịt bò trong nước. Năm trước ông bỏ ra 350.000 đồng mua một ký thịt bò Úc, trong khi gia đình ông D chỉ phải bỏ ra 300.000 đồng mua thịt bò dưới quê.

Qua một năm, đồng bạc mất giá, giá thịt bò trong nước lên thành 350.000 đồng, trong khi đó vì tỉ giá hầu như không thay đổi, dân nhập thịt bò Úc vẫn giữ nguyên giá bán 350.000 đồng. Nay coi như ông C lợi hơn ông D vì trả cùng giá như nhau mà được ăn thịt bò ngoại. Ông D cũng không dại, bèn chuyển sang mua thịt bò Úc luôn, thế là thị trường thịt bò trong nước ngày càng tiêu điều vì không cạnh tranh nổi.

Ví dụ thứ nhì cho thấy vì sao nhiều chuyên gia kinh tế nói chính sách tỉ giá đang làm sản xuất trong nước ngày càng kiệt quệ, không cạnh tranh nổi với hàng ngoại nhập. Cứ thử làm những phép tính tương tự sẽ thấy không một mặt hàng nào, từ đường, sữa đến cả cây tăm cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu cùng loại nếu năm nào lạm phát cũng cao mà tỉ giá vẫn được giữ hầu như cố định.

Nhìn cách khác, có thể nói lạm phát làm chi phí sản xuất ở Việt Nam tăng lên quá nhanh, làm lần lượt nhiều mặt hàng mất tính cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

Bây giờ chúng ta nhìn vào bức tranh ngược lại để xem tình hình này tác động như thế nào với những người hoạt động xuất khẩu. Giả dụ năm này ông nông dân E bán gạo cho công ty xuất khẩu với giá 21.000 đồng/ký, tức chừng 1 USD/ký (lấy con số giả định cho dễ hình dung). Một năm sau đó, ông vẫn phải bán với cùng giá này vì giá thế giới không đổi, tỉ giá không đổi.

Trong năm đó, chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng khoảng 25%, tức giá cả tăng thêm chừng một phần tư trong khi thu nhập ông E không đổi, biểu sao gia đình ông ngày không một nghèo thêm, bởi chỉ số giá tăng chừng đó mà chi phí cho y tế và giáo dục thường tăng vọt cao hơn nhiều lần.

Công nhân và nhân viên làm cho Nhà nước cũng nghèo như nông dân nhưng dù sao hằng năm lương còn được điều chỉnh theo sự trượt giá của đồng tiền. Còn nông dân, trừ phi bán sản phẩm cho thị trường nội địa, nếu cứ bám theo thị trường xuất khẩu sẽ chịu thiệt thòi, nhất là khi giá nông sản thế giới lại giảm.

Nói như thế không có nghĩa cổ xúy cho việc phá giá đồng tiền, dân ta mỗi khi nghe hai chữ phá giá lại càng lo ngại, lại tác động mạnh lên lạm phát, hóa ra lợi bất cập hại. Điều dễ làm nhất, mà cũng là chủ trương được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, là điều chỉnh tỉ giá danh nghĩa sao cho linh hoạt, từng ngày, từng tuần chứ không phải tự nhiên làm một lần cho gây sốc.

Tỉ giá thật đang cho thấy tiền đồng đã và đang tăng giá so với đôla Mỹ, cần điều chỉnh tỉ giá danh nghĩa để tỉ giá trở về đúng giá thật của nó. Vấn đề là nói linh hoạt nhưng dường như ai cũng quên, có lẽ vì để nguyên tỉ giá như thế có lợi cho người có tiền, người sử dụng nhiều hàng nhập, nhất là người nợ nước ngoài nhiều.

Thêm nữa, tỉ giá giữ nguyên trong khi lạm phát cao tạo ra một ảo tưởng là thu nhập đầu người tính bằng đôla Mỹ đang tăng nhanh, làm mọi người an tâm rằng tình hình phát triển kinh tế đang tốt đẹp.

Tình hình cứ như thế này, ông H sẽ mua được xe hơi nhập từ Nhật. Giá nay còn cao nhưng thu nhập ông H đang tăng dần theo sự mất giá của tiền đồng. Cứ đợi thêm một thời gian, lấy mớ tiền đồng mà thực chất giá trị sử dụng chưa bằng một phần so với những năm trước, đổi sang đôla (được bảo đảm tỉ giá “ổn định”), ông H sẽ có đủ tiền đô mua xe như ông A cho con đi du học mà có lẽ vẫn còn dư kha khá.

Đánh thuế người nghèo, chia cho người giàu

Khi tỉ giá danh nghĩa của một đồng tiền so với một ngoại tệ không được điều chỉnh kịp với mức chênh lệch giữa lạm phát của nước đó và nước có ngoại tệ đang so sánh, lúc đó đồng tiền này được xem là đã lên giá thực so với ngoại tệ kia.

Ví dụ 1 đôla Mỹ ăn 21.000 đồng vào đầu năm, cuối năm vẫn giữ nguyên như thế, tưởng đâu tỉ giá được giữ ổn định (đấy là tỉ giá danh nghĩa), nhưng nếu năm đó lạm phát ở Việt Nam là 7% trong khi lạm phát ở Mỹ hầu như không đáng kể thì tỉ giá thực giữa tiền đồng và đôla Mỹ đã tăng chừng 7% (một cách ví von đã được đơn giản hóa).

Tờ Economist dùng giá của một ổ bánh mì kẹp thịt (Big Mac) tại nhiều nước khác nhau để diễn đạt một dạng tỉ giá thực của những nước này. Trong ví dụ trên, chiếc Big Mac ở Mỹ giả dụ vẫn giữ nguyên 5 đôla, trong khi ở Việt Nam, đầu năm là 40.000 đồng, cuối năm lên 50.000 đồng thì rõ ràng tỉ giá thực của tiền đồng so với đôla Mỹ đã tăng mạnh.

Một chuyên gia tài chính cho rằng việc để tỉ giá thực tăng lên chẳng khác gì đánh thuế người nghèo rồi chia cho người giàu. Theo chuyên gia này, đã có những nghiên cứu kinh tế về vấn đề ảnh hưởng của tỉ giá lên sự bất bình đẳng.

“Người nghèo thường không mua hàng ngoại nhập và có tỉ lệ chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu (lương thực, y tế) cao hơn người giàu, nên khi tỉ giá thực tăng lên do lạm phát cao mà tỉ giá danh nghĩa không hay ít thay đổi thì họ bị ảnh hưởng nặng hơn nhiều người giàu” - chuyên gia này nói.

Sử dụng dữ liệu từ nhiều quốc gia, một số công trình nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ rất rõ giữa tỉ giá thực và bất bình đẳng - tỉ giá thực càng tăng mạnh thì thu nhập thực tế của người nghèo càng bị ảnh hưởng, trong khi thu nhập của giới giàu có không bị ảnh hưởng mạnh như thế.

NGUYỄN VŨ

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận