Nhà nước nên sắm vai gì?

LÊ THANH 19/06/2012 01:06 GMT+7

TTCT - Là người tâm huyết với việc cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng như đúc kết nhiều kinh nghiệm trong đổi mới, ông Trần Xuân Giá, nguyên bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư, cho rằng cần phải thống nhất quan điểm Nhà nước cần làm đúng vai trò của mình là chỉ phục vụ xã hội, phục vụ toàn bộ sự nghiệp phát triển chứ không kinh doanh.

Để thực hiện dự án sửa chữa tàu biển ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Vinalines đã mua ụ nổi 83M sản xuất năm 1965 và đã bị Cơ quan Đăng kiểm Nga dừng cấp phép, kiểm định do quá thời hạn theo quy định là 22 tuổi, gây thất thoát hàng chục triệu USD - Ảnh: Thuận Thắng
Ông Trần Xuân Giá

Nếu không thống nhất quan điểm đó thì khó lòng giải quyết được những hạn chế của việc đầu tư dàn trải, sử dụng vốn tràn lan tại các DNNN như thời gian qua." Nhà nước không đầu tư thành lập doanh nghiệp để tìm kiếm lợi tức tài chính thuần túy. Nhà nước không đầu tư góp vốn, thành lập doanh nghiệp để tìm kiếm địa tô. Nhà nước không đầu tư góp vốn, thành lập doanh nghiệp để cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong các ngành nghề, lĩnh vực mà khu vực kinh tế tư nhân có khả năng đầu tư phát triển và làm tốt hơn DNNN" - Ông Giá nói. 

* Theo ông, Nhà nước nên làm gì để đúng vai trò của mình là phục vụ phát triển mà không kinh doanh?

- Nhiều người đến nay vẫn băn khoăn là kinh tế nhà nước cần có mặt ở tất cả các ngành, các lĩnh vực hay chỉ tập trung ở một số ngành then chốt? Thực chất đây là vấn đề phân công lao động xã hội giữa các thành phần kinh tế.

Theo tôi, nguyên tắc chung là trừ những khu vực đặc biệt, còn lại cái gì Nhà nước làm tốt nhất cho nền kinh tế để Nhà nước làm; cái gì tập thể làm tốt nhất để tập thể làm; cái gì tư nhân (cả trong và ngoài nước) làm tốt nhất để tư nhân làm. Nhà nước chỉ cần và phải có mặt ở những nơi rất cần cho sự phát triển đất nước mà tư nhân, tập thể không muốn hoặc không thể làm...

Theo tinh thần đó, với tư cách là nhà đầu tư, Nhà nước kiên quyết giới hạn hoạt động của DNNN trong bốn lĩnh vực sau: các ngành liên quan đến quốc phòng, an ninh; các ngành cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế như giao thông, thủy lợi, năng lượng... là những lĩnh vực then chốt, đồng thời tư nhân không muốn hoặc không thể làm; những ngành công nghiệp công nghệ cao, những ngành ứng dụng khoa học, công nghệ đầu nguồn; các ngành công nghiệp độc quyền tự nhiên.

* Bộ Tài chính đặt ra mục tiêu đến năm 2015 sẽ cổ phần hóa 573 doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả của DNNN. Ông có cho rằng trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều khó khăn mà tiến hành cổ phần hóa các DNNN thì sẽ gặp nhiều trở ngại?

- Tôi nghĩ khác. Không phải vì vào những lúc khó khăn mà không tiến hành cổ phần hóa, ngược lại cần phải đẩy nhanh công tác này. Bởi những lúc khó khăn là dịp để Nhà nước dễ nhìn thấy nhất những mặt yếu kém cơ bản của cả hệ thống DNNN cũng như từng doanh nghiệp cụ thể, để từ đó xác định lộ trình cổ phần hóa phù hợp. Nhưng quan trọng hơn nữa là những nhà đầu tư căn cơ thường xác định đầu tư cho tương lai, đầu tư dài hạn, biết chọn thời điểm tốt để đầu tư.

Vào lúc khó khăn là thời cơ tốt để họ đầu tư, để tìm mua doanh nghiệp hay mua dự án, công trình phù hợp với định hướng kinh doanh, với chi phí mà họ có thể bỏ ra. Do vậy, thời điểm này chính là lúc để tiến hành cổ phần hóa chứ không phải là khó khăn như nhiều người nghĩ.

Bên cạnh các hình thức đang làm, để sắp xếp DNNN cần áp dụng những hình thức đã đề ra từ những năm đầu thập niên 1990, trong đó cần áp dụng hình thức bán hoặc cho thuê. Để bán doanh nghiệp, bán dự án thì lúc bấy giờ, tư nhân hoặc còn e ngại hoặc chưa có nhiều điều kiện để mua. 

Còn nay, nếu Nhà nước bán thì chắc chắn có rất nhiều người mua. Tình hình đã hết sức khác, các nhà đầu tư trong nước, ngoài nước đã có đủ điều kiện để có thể mua. Vì vậy, cần ban hành các quy chế, chính sách để thực hiện việc bán DNNN, công trình, dự án, kể cả những công trình, dự án đang xây dựng dở dang.

* Sau thua lỗ của Vinalines, nhiều chuyên gia cho rằng việc quản lý và giám sát vốn nhà nước tại các DNNN đang có một lỗ hổng rất lớn?

- Sự đổ vỡ hay sai phạm của DNNN đã xảy ra, đang và sẽ xảy ra nếu không có sự thay đổi nhận thức về quản trị, điều hành DNNN. Việc chuyển DNNN thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà không hề thay đổi gì về quản trị, điều hành doanh nghiệp, không hoạt động theo Luật doanh nghiệp một cách thực chất thì đó vẫn chỉ dừng lại là bình mới rượu cũ mà thôi.

Từ ngày 1-7-2010 chúng ta đã chuyển các DNNN thành công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước. Thực tế gần hai năm qua cho thấy hình như không hề có thay đổi gì về bản chất mà chỉ thay đổi mỗi cái tên. Toàn bộ việc quản trị, trong đó có việc giám sát quản lý vốn DNNN, vẫn tiến hành như cũ. Do đó vẫn còn nhiều điều bất ổn.

Còn nói về giám sát và quản lý vốn, chỉ trừ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bí mật là quốc phòng, an ninh, còn đã là doanh nghiệp cho dù to hay bé, cho dù niêm yết hay chưa niêm yết đều phải công khai minh bạch toàn bộ hoạt động của mình, nhất là cân đối tài chính như các công ty niêm yết, phải có kiểm toán độc lập và công khai thông tin đều đặn như quy định. 

Đó là nguyên tắc cơ bản của quản trị để bản thân doanh nghiệp phát triển lành mạnh, ổn định. Chỉ trông chờ vào các cuộc thanh tra của các tổ chức chuyên ngành, của hệ thống thanh tra Chính phủ, hệ thống giám sát của Quốc hội để phát hiện những sai phạm của doanh nghiệp là rất không đủ.

* Ông có lo ngại gì nếu như việc công khai hoạt động kinh doanh của các DNNN còn tù mù như hiện nay?

- Nếu tồn tại như thế này, tôi cho rằng DNNN không bao giờ làm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Theo tôi hiểu, để làm được vai trò chủ đạo, DNNN phải giữ vai trò chủ đạo về năng suất, hiệu quả; phải làm gương về ứng dụng khoa học để đẩy năng suất lên, phải đích thị là công cụ trong tay Nhà nước để xử lý vấn đề kinh tế - xã hội khi có những khó khăn, khủng hoảng. Trong khi thực tế lại không diễn ra như vậy.

Theo số liệu thống kê, các năm 1988-1989 hay 2008-2009 khi kinh tế khó khăn, kinh tế nhà nước tăng trưởng chậm hơn các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, tức là kinh tế nhà nước đã kéo lùi tăng trưởng chứ không góp phần vượt qua khó khăn. 

Ví dụ, kinh tế khó khăn trong những năm 1998-1999: GDP năm 1998 tăng 5,76% thì kinh tế nhà nước tăng 5,56%; còn năm 1999 GDP cả nước tăng 4,77% thì kinh tế nhà nước chỉ tăng 2,55%. Vào những năm 2008-2009 cũng có tình hình tương tự: 2008 GDP tăng 6,18% thì kinh tế nhà nước tăng 4,22% và năm 2009 GDP cả nước tăng 5,32% thì kinh tế nhà nước chỉ tăng có 3,99%.

* Theo ông, trách nhiệm quản lý các DNNN nên thực hiện như thế nào?

- Hiện Bộ Tài chính quản lý về vốn, Bộ Kế hoạch - đầu tư quản lý về đầu tư, bộ chuyên ngành quản lý kinh doanh... Hình như việc quản lý các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn đang trong tình trạng "cha chung không ai khóc".

Thật ra theo quy định hiện hành, các tập đoàn, tổng công ty này trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Nhưng Thủ tướng lại phải làm hàng đống việc đối nội, đối ngoại... mà các việc này đều hệ trọng hơn việc quản lý các tập đoàn, tổng công ty. Do đó, tuy về danh nghĩa các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn hiện nay "có cha", nhưng thật ra cũng chỉ là "cha" hình thức.

Thế nên, tôi đã nhiều lần đề nghị thành lập một bộ thật mạnh để quản lý DNNN. Vì vốn là tài sản của nhà nước, của toàn dân nên cần thiết phải được quản lý tốt để nó phát triển. Việc sợ thêm bộ nữa thì có thể sẽ cồng kềnh nhưng thấy cần thiết thì phải lập, sau này không cần nữa thì rút gọn lại. 

Dĩ nhiên là mỗi phương án quản lý DNNN, quản lý theo trách nhiệm của từng cơ quan như hiện nay hay thành lập một bộ chuyên về quản lý DNNN, đều có mặt mạnh và mặt yếu, nhưng theo tôi, thành lập bộ chuyên về quản lý DNNN có nhiều ưu điểm hơn cả...



Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận