Kinh tế số: Ngăn cú ngã xuống lòng nền kinh tế phi chính thức

LÊ ĐĂNG DOANH 07/11/2018 05:11 GMT+7

TTCT - Làm thế nào để kịp thời hạn chế khả năng một bộ phận của nền kinh tế số rất hiện đại và đầy hi vọng bị rơi vào kinh tế phi chính thức, bị quy chụp hay hạn chế không cần thiết?

Ảnh: pinterest.com
Ảnh: pinterest.com

 

Nền kinh tế số kết nối sâu rộng qua công nghệ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có cho lao động và việc làm mới, giao dịch, thương mại, sản phẩm, dịch vụ, trao đổi hàng hóa mới... Nền kinh tế tự do hay kinh tế tạm thời (gig economy) là một ví dụ...

Theo Cơ quan Lao động Mỹ, tỉ lệ người làm việc tự do ở Mỹ đã lên đến 34% tổng số lao động (2017) và dự báo có thể sẽ tăng lên đến 42% vào năm 2020. Không ít lao động có trình độ chuyên môn sinh sống ở Việt Nam hiện nay đang tham gia buôn bán chứng khoán ở Mỹ và thị trường chứng khoán toàn cầu, làm việc cho các công ty tư vấn hay phần mềm ở Pháp hay Nhật, được trả tiền qua ngân hàng điện tử.

Những diện mạo sáng sủa của kinh tế số

Ta đã thấy khá nhiều dạng mua bán, trao đổi hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ của kinh tế chia sẻ (sharing economy) như cùng đi chung ôtô để đi làm, cho thuê phòng cho khách ở theo dạng homestay qua môi giới của Airbnb... Airbnb xuất hiện năm 2008, đến nay đã có mặt trên 190 nền kinh tế, 34.000 thành phố với số khách lên đến 60 triệu người.

Ở Việt Nam, theo thông tin của ngành du lịch, hiện đã có hơn 16.000 phòng cho thuê theo ứng dụng này tại Hà Nội và TP.HCM. Số phòng này tương đương tổng số phòng của hệ thống khách sạn từ 2-4 sao của TP.HCM và đang tiếp tục tăng lên nhanh chóng.

Những hình thức khác cũng đã xuất hiện: kinh tế hàng đổi hàng (barter economy) nơi người dân có thể trao đổi hàng hóa ngang giá hay kinh tế quà biếu (gift economy) khi người dân có thể cho một số sản phẩm hay vật phẩm của mình mà không yêu cầu phải trả tiền, thù lao hay hứa hẹn bất kỳ sự trả ơn nào trong tương lai.

Trừ kinh tế quà biếu, các hình thức lao động hay trao đổi trên có được cơ quan thuế kiểm soát hay không và thu thuế thế nào là một thách thức không nhỏ cho nhiều nền kinh tế, kể cả những nước phát triển.

So với những cá nhân và doanh nghiệp trong nước đăng ký và nộp thuế theo luật, những người lao động tự do theo gig economy hay cho thuê phòng theo Airbnb được quản lý và nộp thuế ra sao nếu chưa có quy định pháp lý về nghĩa vụ đăng ký? Từ đây xuất hiện một câu hỏi quan trọng: Có hình thành một mảng kinh tế phi chính thức hay chưa và nếu có xuất hiện thì trách nhiêm thuộc về đâu?

 

Cơ hội mới - Rắc rối mới

Theo Forbes, nền kinh tế số toàn cầu đang có tốc độ phát triển nhanh chóng với giá trị vào khoảng 3 nghìn tỉ USD, chiếm tỉ trọng 3,8% nền kinh tế toàn cầu vào năm 2016. Sự phát triển kinh tế số còn thể hiện ở việc có khoảng 200 thành phố trên toàn thế giới dự kiến xây dựng thành phố thông minh.

Dự báo đến năm 2020, tổng thị trường thành phố thông minh toàn cầu ước đạt 1,5 nghìn tỉ USD, chiếm 38% tỉ trọng của kinh tế số toàn cầu, tập trung ở các lĩnh vực chính phủ điện tử, năng lượng thông minh và y tế.

Theo thông tin từ Google và Temasek, nền kinh tế số của khu vực ASEAN đã có những đột phá trong những năm gần đây và đặc biệt là trong năm 2017. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế số khu vực ASEAN năm 2017 đã vượt kỳ vọng với tỉ lệ tăng trưởng hàng năm đạt 27%/năm và đạt mốc 50 tỉ USD, chiếm khoảng 2% GDP của khu vực (dự kiến sẽ đạt 6% GDP vào năm 2025).

Đóng góp vào sự tăng trưởng này là các ngành như du lịch trực tuyến, thương mại điện tử, phương tiện truyền thông và giải trí trực tuyến, đặt xe trực tuyến.

Việt Nam có hơn 90 triệu dân, hơn 58 triệu người dùng Internet, hơn 125 triệu thuê bao di động, hơn 3.000 doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, có nhiều tên tuổi thành công trong lĩnh vực công nghệ thông tin (công nghệ phần mềm, ứng dụng công nghệ số). Do vậy, chúng ta đang được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển nền kinh tế số.

Theo đó, xu thế “số hóa” cũng đã xuất hiện ở hầu hết lĩnh vực, từ thương mại, thanh toán đến giao thông, giáo dục, y tế... Nhiều doanh nghiệp Việt đã tham gia thương mại điện tử thành công (vuivui.com, Tiki.vn...), các nền tảng thanh toán trung gian bằng công nghệ QR Code, ví điện tử, mạng xã hội, thiết bị IoT, thanh toán trực tuyến của các ngân hàng...

Tuy nhiên, tỉ trọng thương mại điện tử trong tổng số doanh số thị trường bán lẻ của Việt Nam chỉ chiếm 3,6%. Đây là con số khiêm tốn so với mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương (14,5%). Xếp hạng của Việt Nam trong nền kinh tế số cũng khá thấp. Theo xếp hạng của Chỉ số Phát triển số hóa (Digital Evolution Index - DEI) của Trường đại học Tufts (Mỹ), Việt Nam đạt 2,19/5 điểm, xếp thứ 48 trên 60 nền kinh tế.

UNPAN - cơ quan xếp hạng chính phủ điện tử của Liên Hiệp Quốc - xếp Việt Nam thứ 89/193 nền kinh tế (2016). Năm 2017, Việt Nam lên được 1 bậc, xếp thứ 88/193 nền kinh tế. Trong các nước ASEAN, Việt Nam xếp hạng thứ 6 sau Singapore, Malaysia, Brunei, Thái Lan và Philippines.

Rõ ràng, bộ máy quản lý nhà nước của Việt Nam đã chậm so với sự phát triển của công nghệ và sự năng động của nền kinh tế hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới. Đó chính là kẽ hở để một số loại hình của nền kinh tế số có thể trở thành một bộ phận mới của mảng kinh tế phi chính thức vốn đã chiếm tỉ lệ cao về lao động và GDP trong nền kinh tế truyền thống, dẫn đến bất công trong xã hội, làm tăng thêm chênh lệch giàu - nghèo.

Để phát triển nền kinh tế số một cách chính quy, hợp pháp, Nhà nước cần xây dựng kịp thời môi trường pháp lý phù hợp cho nền kinh tế số và giao dịch điện tử. Một khung pháp lý bao quát nền kinh tế số sẽ giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số diễn ra một cách mau chóng và thuận lợi hơn. Khung pháp lý cơ bản có thể gồm luật về văn bản điện tử, luật giao dịch điện tử và luật chữ ký số, giúp Nhà nước quản lý được các hình thức giao dịch điện tử.

Sự chậm trễ của khung pháp lý về các hoạt động kinh tế số đã và đang đẩy các hoạt động này sang khu vực phi chính thức, làm cho cơ quan thuế phải vật lộn với việc truy thu thuế. Càng chậm trễ thì hoạt động kinh tế số vốn tăng nhanh như vũ bão sẽ càng bị rơi sâu hơn vào khu vực kinh tế phi chính thức, thậm chí điều này còn diễn ra ngoài cả ý muốn của những cá nhân và thể nhân tham gia các hoạt động này.

Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã dự báo 86% lao động trong dệt may và da giày của Việt Nam có nguy cơ mất việc làm do ứng dụng người máy và các tập đoàn giảm sử dụng lao động giản đơn. Nhà nước phải thuyết phục, tạo điều kiện, khuyến khích hàng triệu người lao động từ thành thị đến nông thôn học tập suốt đời, sẵn sàng học một nghề mới, chấp nhận công việc khác, hợp tác với những cộng sự đến từ nước khác. Hệ thống giáo dục sẽ phải phát triển để thực hiện nhiệm vụ khổng lồ này, thị trường lao động sẽ phải điều chỉnh. Dẫu có cho người máy là thiên thần cứu tinh hay ác quỷ đi chăng nữa, đối với người lao động, nếu không đạt được đồng thuận xã hội, tạo việc làm mới cho những lao động mất việc vì người máy, xung đột xã hội sẽ khó tránh khỏi và lao động phi chính thức sẽ tiếp tục tăng.

Một báo cáo đáng chú ý

Khả năng thích ứng với nền kinh tế số của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Đây chính là khu vực có nhiều hạn chế về trình độ quản trị, tiếp cận nguồn vốn và công nghệ để hiện đại hóa và mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua nền kinh tế kỹ thuật số.

Trước thềm Hội nghị G20 của 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới sắp diễn ra ở Argentina vào tháng 11-2018, một báo cáo của Tổ chức GPFI (Global Partnership for Financial Inclusion) về “Số hóa và tính phi hình thức” đã được chuẩn bị với đề nghị số hóa mạnh mẽ các quan hệ tài chính của cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm giảm mạnh tỉ lệ kinh tế phi hình thức trong nền kinh tế. Báo cáo kiến nghị cần nhanh chóng bao gồm tối đa các cá nhân và thể nhân vào hệ thống tài chính số hóa, đẩy lùi khu vực tài chính phi chính thức mà không cần kiểm soát hành chính các hoạt động đó như đăng ký hợp đồng lao động...

Báo cáo này đề xuất nhiều biện pháp như sớm số hóa hệ thống chứng minh cá nhân và đăng ký thể nhân. Thực hiện rộng khắp hệ thống thanh toán số qua mạng, nâng cấp hệ thống cung cấp thông tin kinh tế - xã hội cho toàn thể dân chúng trong xã hội, tăng cường bảo vệ sự an toàn tài chính của người dân trong giao dịch mua bán. Báo cáo cũng kiến nghị thực hiện giáo dục đào tạo cho mọi người dân về kinh tế số, khắc phục tình trạng “mù chữ kinh tế số”.

Nền kinh tế số hoạt động xuyên biên giới, các cơ quan nhà nước, tài chính Việt Nam phải hợp tác, trao đổi thông tin với các cơ quan tương đương của các nước liên quan để thực hiện quản lý nhà nước phù hợp với nền kinh tế số.

Đó thực sự là một công cuộc chuyển đổi có tính cách mạng của toàn thể nền kinh tế và xã hội sang nền kinh tế số để không còn chỗ hổng cho khu vực kinh tế phi chính thức xuất hiện trong nền kinh tế số. Việt Nam phải nhận thức đúng những cơ hội và thách thức, tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số, đồng thời cũng kịp thời hạn chế khả năng một bộ phận của nền kinh tế số rất hiện đại và đầy hi vọng này chậm hay chưa được kiểm soát, bị rơi vào kinh tế phi chính thức, bị quy chụp hay hạn chế không cần thiết.■

Trong báo cáo mới đây gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Chính phủ cho hay năm 2017 ngành thuế đã triển khai rà soát các cá nhân kinh doanh qua mạng xã hội nhưng chưa kê khai, nộp thuế.

Cụ thể, ngành thuế Hà Nội đã rà soát, thu thập cơ sở dữ liệu của 13.422 chủ tài khoản trên mạng xã hội có hoạt động quảng cáo, bán hàng qua mạng, trong đó 1.950 cá nhân đã đăng ký và được cấp mã số thuế để kê khai, nộp thuế.

Cục Thuế TP.HCM cũng đã gửi 13.145 giấy mời tới chủ của trên 15.297 website và tài khoản Facebook có kinh doanh thương mại điện tử.

Tại Đà Nẵng, ngành thuế đã rà soát 11.072 chủ tài khoản. Khánh Hòa có 6.729 chủ tài khoản. Nghệ An có 3.545 chủ tài khoản trên mạng xã hội có hoạt động quảng cáo, bán hàng qua mạng.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận