Khoảng rộng sáng tạo cho cả thầy và trò

VŨ QUẦN PHƯƠNG 23/01/2013 20:01 GMT+7

TTCT - Hiện tình đáng buồn của môn văn hôm nay hẳn phải là kết quả một suy thoái tiệm tiến nhiều năm, nảy sinh từ một nhầm lẫn nào đó trong quan niệm về chức năng văn chương, về phương pháp dạy và học văn.

Phóng to
Minh họa: VIIP

Khi lều chõng của lối thi cựu học bút lông giấy bản xếp lại, nền học mới “á â u ơ ngọn bút chì” (Tú Xương) khai sinh. Cách dạy và học văn theo tân học cũng hình thành và đã đào tạo nên nhiều nhà phê bình nghiên cứu, nhà sáng tác văn chương tài năng, tạo dựng nền văn chương hiện đại của nước nhà. Cách dạy và học văn ấy chắc hẳn phải có chỗ hợp lý nên mới có đóng góp như vậy. Và hiện tình đáng buồn của môn văn hôm nay hẳn phải là kết quả một suy thoái tiệm tiến nhiều năm, nảy sinh từ một nhầm lẫn nào đó trong quan niệm về chức năng văn chương, về phương pháp dạy và học văn.

Về chương trình môn văn trung học

Muốn tác động tới trí tuệ của trò, thầy phải có kiến thức sâu sắc. Muốn tác động tới cảm xúc, thầy phải có cảm hứng khi truyền thụ. Vế trước nhờ đào tạo mà có. Vế sau trông đợi nhiều ở phẩm chất tâm hồn, dù rằng phẩm chất này qua rèn luyện cũng có thể hình thành và phát triển. Nhưng để hai điều kiện tiên quyết đó được cộng hưởng tác động trong giảng dạy thì người thầy cần có một khoảng không gian sáng tạo đủ rộng.

Phải chăng do quá coi trọng chức năng giáo dục, nhất là giáo dục chính trị, mà trong cấu tạo chương trình các nhà tu thư khi chọn tác phẩm hoặc khi luận bình đã để văn chương lấn sang xã hội học, chính trị học, biến văn chương thành một môn giáo dục công dân thô sơ?

Văn chương làm nhiệm vụ tuyên truyền cho đủ thứ nhưng lại quên tuyên truyền cho chính mình. Tuyên truyền bằng vẻ đẹp say người của mỹ học văn chương. Khi chọn lựa những tác phẩm văn chương cả cổ điển lẫn hiện đại để đưa vào giảng dạy, người soạn sách thường nặng về phẩm chất hiện thực, có giá trị như chứng tích tố cáo xã hội cũ mà coi nhẹ những tác phẩm lãng mạn trữ tình, ẩn chứa những cảm xúc, những khát vọng hay nông nỗi sâu sắc của con người. Trò và rồi cả thầy cứ mơ hồ dần những giá trị thẩm mỹ, nơi người đọc được hưởng thụ cái hay, cái mê đắm thiết cốt của văn chương, nơi tâm hồn con người được cất cánh cao hơn mặt bằng so bì sai đúng hơn thua.

Do vậy văn chương mất dần sức hấp dẫn với trò và cũng lấy dần cảm hứng dạy của thầy. Dạy văn mà chọn sự thì dễ dạy, dễ học nhưng không sâu sắc, không say mê. Dạy vào tâm thì người dạy khó truyền thụ, người học khó nắm bắt, nó dễ mơ hồ. Nhưng đấy mới là chỗ đến của văn chương. Phân biệt sự và tâm nhiều khi không dễ, ranh giới giữa chúng có khi mảnh như sợi tóc nhưng khác biệt về chất lại như hai thế giới.

Vào ngày tết một năm sáu mươi nào đó, buổi văn nghệ dành cho nhi đồng trên Đài Tiếng nói VN mở đầu bằng lời đồng thanh của các cháu: “Chúng cháu kính chúc Bác Hồ mạnh khỏe sống lâu”. Rồi: “Chúng cháu kính chúc các bác Trung ương Đảng...”. Hai câu chúc đồng dạng về hình thức, đồng dạng cả về nội dung nhưng là hai khác biệt.

Bác Hồ, các cháu biết. Các cháu chúc Bác là chúc một con người cụ thể như khi chúc ông bà, cha mẹ. Trong lời chúc ấy mang tình cảm, mang sự sống. Nhưng khi chúc các bác trung ương, với tuổi các cháu, là chúc một khái niệm, chả biết bác trung ương là bác cụ thể nào nên không thể có tình cảm ẩn trong lời chúc. Lời chúc không có đối tượng, trẻ con nói mà vô cảm, chỉ là làm một việc hình thức. Việc không gây tổn hại nhỡn tiền, nhưng cứ lặp đi lặp lại từ lời chúc đến lời hứa, lời thề, cứ nói điều mà mình không nghĩ, không cảm sẽ làm hỏng nhân cách, làm suy thoái nền tảng văn hóa. Các nhà soạn sách cần tinh tường loại bỏ những bài văn không văn như lời chúc không chúc trên đây để trả lại phẩm chất hàng đầu của văn chương là cảm xúc chân thật. Cần phân biệt đức Phật với ông tượng gỗ, phân biệt quốc kỳ với vuông vải đỏ có ngôi sao. Một đằng mang hồn, một đằng chỉ là cái xác vật chất.

Tìm nhân sự có đủ năng lực thẩm định văn chương và kinh nghiệm sư phạm để cấu tạo chương trình học văn cho các lớp trung học là việc không dễ. Cần nhiều cẩn trọng và công sức. Những nhà sư phạm, nhà nghiên cứu và nhà văn, nhà thơ nên có sự phối hợp. Đầu tư một lần làm nền tảng và duy trì liên hệ trong mỗi lần chỉnh sửa.

Về phương pháp dạy và học

Văn là môn học vừa tác động vào trí tuệ vừa tác động vào tâm hồn. Phải cả hai tác động đó mới hoàn thành một quá trình truyền thụ, hưởng thụ văn chương. Muốn tác động tới trí tuệ của trò, thầy phải có kiến thức sâu sắc. Muốn tác động tới cảm xúc, thầy phải có cảm hứng khi truyền thụ. Vế trước nhờ đào tạo mà có. Vế sau trông đợi nhiều ở phẩm chất tâm hồn, dù rằng phẩm chất này qua rèn luyện cũng có thể hình thành và phát triển. Nhưng để hai điều kiện tiên quyết đó được cộng hưởng tác động trong giảng dạy thì người thầy cần có một khoảng không gian sáng tạo đủ rộng.

Hiện nay trong các giáo trình giảng dạy, không gian sáng tạo của thầy bị thu hẹp quá nên chỉ có thể thích ứng chứ không tạo dựng được cảm hứng riêng. Học tác giả nào do giáo trình quy định. Việc này cần để có tính thống nhất trong các bậc học. Nhưng việc chọn bài nào, đoạn trích nào để giảng liệu có cần phải bắt buộc tuân thủ như thế không. Bắt buộc đến cả các ý phải giảng trong bài thì tước hết quyền và trách nhiệm phát hiện của thầy. Thầy giỏi không có chỗ dùng những khám phá của mình, thầy lười không cần vượt qua cái lười cũng có thể đạt yêu cầu trong việc trung chuyển đám kiến thức đóng gói từ sách giáo khoa sang nhận thức học trò. Việc này có cái tiện là trong giai đoạn người dạy còn thiếu năng lực thì giáo trình như một thứ phác đồ điều trị của y tế cơ sở, cứ bệnh ấy thì thuốc ấy. Tiện nhưng kém hiệu quả vì phác đồ quá máy móc, không căn cứ đến yếu tố người bệnh. Đó là biện pháp cực chẳng đã, không thể kéo dài.

Giáo trình giảng văn trung học kiểu “thức ăn đóng hộp” ấy không những đã kéo dài mà ngày càng khô cứng, nguội lạnh. Khô nguội nhất là thời kỳ luyện thi văn chương theo bộ đề - một cách học tủ - thủ tiêu mọi cảm nhận vụt đến của tâm hồn, thủ tiêu cả những đột phá của nhận thức, nhất là làm biến mất bản lĩnh nghị luận hệ thống của cá thể tư duy. Học như máy và những cái máy học ấy nuốt chửng cả con người. Con người mất đi niềm vui buồn sinh động trước trang văn.

Tạo khoảng rộng sáng tạo cho thầy dạy và cho trò học bằng cách nào? Chắc chắn có nhiều cách. Tôi xin đưa một biện pháp từ chiêm nghiệm của chính mình. Ấy là giáo trình không chọn một bài cố định mà nên chọn một số bài gợi ý. Thầy có thể chọn bài trong số này và cũng có thể chọn ra ngoài, nếu đủ tự tin. Thí dụ đối với thơ Nguyễn Khuyến: những bài về làng cảnh, những bài về tâm sự trí thức trước thời cuộc, những bài đả kích châm biếm... đều có hàng loạt. Khi thầy và sau đó là trò đã nắm vững những tình ý và phong cách nghệ thuật của tác giả thì việc chọn bài thơ nào sẽ rất tung hoành, mạch văn bình luận cũng sẽ rất hồn nhiên, tràn đầy sự sống. Chính nét hồn nhiên và tung hoành ấy tạo nên cảm hứng cho thầy dạy và trò học. Thầy và trò thành những cá thể đối thoại và cùng đối diện với văn chương chứ không phải là cái máy phát đặt cạnh cái máy thu.

Thuở nhỏ, tôi đã được dự những buổi học văn, mà học sinh ở lớp khác không có tiết học cũng xúm đông ngoài cửa sổ say mê nghe nhờ. Tôi vào nghề văn chương bằng kiến thức văn học của trường trung học. Tôi biết ơn những cơn nhập đồng đầy cảm hứng của các thầy Hoài Việt, Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Uyển Diễm, Trần Lê Văn (thời trung học đệ nhất cấp, sau này gọi là cấp II) và các thầy Nguyễn Tường Phượng, Đoàn Nồng, Đái Xuân Ninh (thuở cấp III). Giáo án cháy biến để thầy trò hồn nhiên buông thả trực giác mà truyền thụ và cảm thụ. Dạy và học như thế thật sự là những cơn hưởng thụ văn chương để lại ấn tượng suốt đời người.

Ở Mỹ hiện nay, tôi thấy ngay từ cấp I thầy đã giao cho trò một chùm truyện hoặc thơ để trò tự chọn lấy một mà làm bài. Cấp tiểu học là bài tóm tắt nội dung và một vài cảm nhận, cấp trung học đã là thu hoạch nhận thức, cảm xúc và cao hơn là bình luận, phê phán. Ở Pháp, có năm một tờ báo đăng bài làm văn của học trò gây chấn động trong giới viết. Ngay ở ta, ý phê phán của các em về hành vi Tấm giết Cám và ý chỉ trích sen sớm quên bùn (gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn) mới đây đã làm cả xã hội giật mình nghĩ ngợi. Không chỉ nghĩ ngợi nghĩa lý văn chương mà nghĩ về cái thời mình đang sống. Và đấy mới chính là hiệu quả đích thực của văn chương mà rõ ràng nay đã nằm ngoài giáo trình, giáo án.

Việc tạo khoảng rộng cho thầy sáng tạo chính là cách tạo nên bản lĩnh tư duy cho trò, điều mà nền giáo dục của ta đang thiếu.

___________

Là một giáo viên có gần 30 năm đứng trên bục giảng, từng dạy chương trình ngữ văn cấp II và cấp III, tôi cho rằng có rất nhiều nguyên nhân khiến học sinh chán học văn:

Phóng to
Tình yêu đối với môn văn có thể đến từ một cuốn sách đẹp và hay. Trong ảnh: nhiều bạn trẻ ham đọc vẫn dày công tìm kiếm những cuốn sách tốt trong các phiên chợ sách cũ như thế này - Ảnh: Lam Điền

1. Học trò chán học văn vì chương trình có nhiều bài không hay hoặc quá khó so với lứa tuổi, làm thui chột cảm xúc người dạy và người học.

Với Tản Đà - “người của hai thế kỷ” - có nhiều bài thơ hay là thế mà chọn đưa vào chương trình bài thơ Hầu Trời làm khó cả thầy lẫn trò trong tiếp cận sự nghiệp thơ văn trác tuyệt của cụ. Nguyễn Đình Chiểu với Lẽ ghét thương (chương trình lớp 12), Nguyễn Đình Thi với Tiếng nói văn nghệ, Lưu Quang Vũ với vở kịch Tôi và chúng ta đưa vào chương trình lớp 9... đều là những tác phẩm chưa đúng tầm hoặc quá sức với học sinh tuổi này.

Các tác giả làm sách đưa vào trong chương trình rất nhiều tác phẩm quá dài khiến cả người dạy và người học mệt mỏi. Trong chương trình lớp 12, riêng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã có tới 90 câu, dài bằng toàn bộ tám bài thơ học chính thức của chương trình lớp 11 (học kỳ 2) cộng lại chỉ có 91 câu...

2. Học trò chán học văn vì chương trình bị sắp xếp theo trình tự thời gian mà không theo tâm lý và nhận thức lứa tuổi.

Chương trình văn học trung đại vốn rất uyên bác, thâm sâu, cả người sáng tác và người thưởng thức ngày xưa đều là những bậc nho sĩ trí thức thuộc tầng lớp trên của xã hội, hầu hết cũng đã bước vào độ tuổi ngũ thập tri thiên mệnh. Để thấu hiểu những triết lý sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm đòi hỏi phải có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, vào một độ tuổi nhất định. Đưa những tác phẩm đó để dạy cho học sinh chỉ mới tuổi 13, 15 (học kỳ 1 của lớp 7, học kỳ 2 của lớp 8, học kỳ 1 của lớp 9), ngay cả cho học sinh lớp 10 cũng chưa hợp lý, nên để các em yêu thích môn văn là điều... không tưởng. Với sự áp đặt khiên cưỡng ấy, chúng ta đang hủy diệt niềm hứng thú học văn ở các em, dẫn đến tâm trạng chán nản mệt mỏi. Học mà không hiểu gì thì làm sao thích được. Ngay cả nhiều thầy cô giáo trẻ cũng ít người hiểu hết được sự thâm sâu của các tác phẩm.

3. Học trò chán học văn vì cách ra đề của chúng ta quá chi tiết, vụn vặt.

Đề thi môn văn bao năm nay đều quá chuyên sâu theo kiểu “nhai văn nhá chữ” phù hợp với các nhà phê bình hơn là đối tượng học sinh. Một bài thơ dài 90 câu chỉ học trong ba tiết, khi đi thi yêu cầu chỉ phân tích khoảng chục dòng theo kiểu “dạy thoáng qua - thi bám lá”, thậm chí đoạn chọn để ra đề thi lại là đoạn rất bình thường khiến học sinh “không có đất dụng võ”, phải “chém gió” bù vào.

Đáp án cũng nguyên tắc khuôn mẫu, rất nhiều ý do một nhóm thầy cô thảo luận đưa ra, một học sinh căng thẳng trong phòng thi mà nhớ được đủ ý như vậy là điều bất khả. Chính cách ra đề này triệt tiêu sự đổi mới phương pháp giảng dạy. Đề thi chỉ nên ra những phần tinh túy nhất của tác phẩm, và không hạn chế phạm vi tác phẩm. Người chấm phải đủ “thoáng” để nắm bắt những sáng tạo bay bổng trong bài viết của học sinh chứ không phải đếm ý theo đáp án.

4. Học trò chán học văn vì giữa niềm đam mê và công sức của người học với kết quả điểm nhiều lúc bị lệch pha.

Việc nhiều học sinh rất cố gắng nhưng điểm văn lại rất thấp có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân khá cơ bản là do không hợp “gu” thầy cô, do thầy cô chấm bất thường, quá rộng hoặc quá chặt. Điểm quá thấp cũng sẽ dẫn tới tâm lý bỏ bê mặc kệ, nản, không thèm học. Thầy cô giáo vẫn rất nhiều người quan niệm một cách cứng nhắc, rằng môn văn được 7-8 điểm là cao, điểm 9-10 là “điểm của Chúa” chứ không phải của học trò.

5 .Học trò chán học văn vì có nhiều thầy cô giáo chúng ta chưa đủ lửa để truyền lửa.

Nhiều em dự thi sư phạm văn không phải vì yêu văn, cũng không phải có năng khiếu về văn mà vì môn văn khi ra trường dạy có vị trí hơn môn lịch sử và địa lý, nhiều em thi khối C là do “chuột chạy cùng sào”. Thầy không đam mê lấy đâu lửa để truyền cho trò? Kiểu dạy cho xong chuyện, không “nhăn mày rơi châu”, không nhập hồn tác phẩm, không lên bổng xuống trầm làm sao người học có thể yêu thích? Số giáo viên có tầm, có tâm, có tài còn quá ít.

6. Học trò chán học văn vì chất lượng sách giáo khoa chưa tốt.

Sách giáo khoa giấy xấu, trình bày đơn điệu, hình ảnh minh họa không đẹp. Một số khác thì không có hình ảnh, thiếu sự đồng bộ.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận