Thực nghiệm, học mẫu và những lối đi quanh của giáo dục

TTCT - Hầu như năm nào ngành giáo dục cũng ở trong những cuộc bàn luận nóng, năm nay lại bắt đầu với Luật giáo dục đại học, tăng giá sách giáo khoa và những khúc mắc trong tuyển sinh các cấp... Từ góc nhìn của một chuyên gia về thực nghiệm giáo dục, gốc rễ của những sự nóng và khúc mắc ấy được lý giải ra sao?

Mười năm trước, Hội Ngôn ngữ học TP.HCM hoàn tất đề án về chương trình tiếng Việt ở trường phổ thông do PGS Cao Xuân Hạo chủ biên và hai đồng tác giả là PGS.TS Bùi Mạnh Hùng và tôi (Hoàng Dũng). Đây là một công trình hoàn toàn không nhận một xu của Nhà nước. Đề án được gửi Viện Nghiên cứu giáo dục, bộ trưởng Bộ Giáo dục - đào tạo và các cấp cao hơn nữa. Kết quả là một sự im lặng tuyệt đối, thậm chí không một lời hồi âm rằng đã nhận được.

Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc ấy nghe tin liền mời lãnh đạo hội và nhóm tác giả đến nhà để trao đổi. Ông cùng một vài chuyên gia chỉ ngồi nghe, thỉnh thoảng mới hỏi những câu cần thiết. Cuối buổi, ông thân tình nói: “Tôi thấy vấn đề thật lớn và khó nên còn muốn tìm hiểu thêm. Xin các anh thu xếp để cho tôi được nghe thêm nữa”.

Chừng nửa tháng sau, ông lại mời chúng tôi đến nhà. Lần này có thêm ông Trương Song Đức, giám đốc Sở Giáo dục - đào tạo lúc đó. Ông lại chăm chú ngồi nghe. Kết thúc cuộc trao đổi, ông kết luận: “Cần phải thực nghiệm”. Và quay sang giám đốc Sở Giáo dục - đào tạo Trương Song Đức, ông hỏi: “Sở Giáo dục - đào tạo có thể tổ chức thực nghiệm được hay không?”. Ông Đức trả lời thẳng thắn: “Thưa không. Luật giáo dục không cho phép”.

Ông Trương Song Đức nói đúng. Trong khuôn khổ thiết chế hiện nay, không thể tổ chức một cuộc thực nghiệm lớn, dài hơi và nghiêm túc. Học sinh đang quá tải, làm sao một mặt phải học tốt chương trình phổ thông quy định, mặt khác phải tham gia chương trình thực nghiệm kéo dài từ năm này sang năm khác được?

Thực nghiệm “đi ngược”

Hệ thống trường ĐH sư phạm, trong đó có hai trường trọng điểm quốc gia và ngay cả Viện Nghiên cứu giáo dục VN, vì thế mặc nhiên bị loại ra khỏi nỗ lực nghiên cứu, triển khai việc cải tiến dạy và học ở phổ thông vì không thể tiến hành thực nghiệm các tư tưởng khoa học, nếu không kể những “thực nghiệm” ngắn hạn, ít ảnh hưởng. Vì thế có thể nói tất cả các cuộc cải cách giáo dục phổ thông đều có phần phiêu lưu vì thiếu cơ sở thực nghiệm vững chắc và đầy đủ.

Xin nói thêm: thực tế những cải cách giáo dục phổ thông vừa rồi tuy có giảng viên ĐH sư phạm tham gia nhưng chỉ với tư cách cá nhân, chứ không phải đưa trường ĐH này, với tư cách là một tổ chức, vào cuộc. Điều đó khiến cuộc cải cách đi theo một tiến trình ngược: các trường ĐH sư phạm phải chạy theo cải cách ở phổ thông.

Mảnh đất để thực nghiệm giáo dục lẽ ra phải là hệ thống trường trung học thực hành trực thuộc các trường ĐH sư phạm. Nói “lẽ ra” là vì hiện nay trường trung học thực hành không thể đảm nhận vai trò đó. Về mặt chuyên môn, nó do Sở Giáo dục - đào tạo quản lý. ĐH Sư phạm chỉ chịu trách nhiệm về nhân sự và cơ sở vật chất. Như thế, trường trung học thực hành thực chất chỉ là một trường trung học như tất cả các trường trung học khác.

Mô hình trường trung học kiểu mẫu trước đây có thể cho ta một gợi ý tốt, chẳng hạn Trường trung học Kiểu mẫu Thủ Đức do giáo sư Dương Thiệu Tống (người Việt Nam đầu tiên có bằng tiến sĩ giáo dục học) làm hiệu trưởng. Người dạy được chọn lọc kỹ: giáo viên phổ thông giỏi, có kinh nghiệm; sinh viên sư phạm tốt nghiệp thủ khoa; thậm chí một số ít là giảng viên ĐH. Nhưng quan trọng hơn hết là nhà trường được quyền tuyển sinh theo cách riêng, thi tốt nghiệp theo cách riêng mà bằng vẫn được công nhận là bằng quốc gia. Nhờ thế người dạy có thể thỏa sức thực hiện ý đồ giáo dục của mình.

Tôi - lúc ấy là học sinh của trường này - được học về hiện tượng luận, trong đó có đề cập đến Trần Đức Thảo - một triết gia đang sống ở miền Bắc. Thầy giáo không sợ học trò vì thế mà thi hỏng, tuy hiện tượng luận không có trong chương trình triết học ở bậc phổ thông thời bấy giờ. Điều đó thể hiện tinh thần khai phóng, nhất là ở bậc ĐH. Một số kết quả thực nghiệm ở Trường trung học Kiểu mẫu được đem ra áp dụng cho tất cả trường khác.

Học mẫu và lối đi quanh của giáo dục

Mô hình trường trung học thực hành hiện nay là không ổn. Nhưng vận dụng kinh nghiệm từ những mô hình khác cũng không dễ. Chúng ta quản lý xã hội, trong đó có giáo dục, theo hướng càng tập trung càng tốt. Cách quản lý đó chứng tỏ thất bại trong lĩnh vực kinh tế. Và trước viễn cảnh cả đất nước đói ăn, chúng ta buộc phải đổi mới, cho phép “khoán hộ” rồi “năm thành phần kinh tế”. Kết quả là hiện nay nền kinh tế đã vượt qua “giai đoạn hiểm nghèo”.

Nhưng cách quản lý đó vẫn còn nguyên trong giáo dục, chỉ trừ một thay đổi nặng về nguyên nhân kinh tế: cho phép thành lập trường dân lập và sau đó tư thục. Mọi nỗ lực khai phóng thường đều vấp phải cái nhìn cảnh giác, quy vào tội “lơi lỏng”. Không có chương trình và sách giáo khoa bậc phổ thông nào trên thế giới chặt chẽ hơn ở ta: dạy Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn, thay vì chỉ cần nêu vấn đề cần dạy là đủ lại quy định rõ ràng là trích đoạn từ câu nào tới câu nào, dạy trong mấy tiết, dạy trước bài nào. Cho nên chẳng ai ngạc nhiên khi thấy nạn văn mẫu, nạn quay cóp tràn lan mà dù cố gắng đến mấy cũng không thể triệt tiêu được.

Tôi biết có trường hợp một giáo viên bị cắt lao động tiên tiến vì đã “cả gan” thay đổi chút xíu, bài theo quy định phải dạy sau lại đem dạy trước. Trong hồi ký, Nguyễn Hiến Lê đã kinh hãi khi biết rằng đúng vào một giờ nhất định, trong các trường phổ thông trên cả nước đều dạy đúng một bài như nhau. Nguyễn Hiến Lê sẽ kinh hãi gấp đôi nếu biết thêm rằng mấy chục năm sau khi ông mất tình hình vẫn không thay đổi.

Trong bối cảnh đó, cải cách giáo dục phổ thông đòi hỏi quyết tâm chính trị lớn, có chiến lược rõ ràng, có bước đi vững chắc thay những lối đi quanh nay đúng, mai sai như đã thấy. Như thế không thể không thay đổi Luật giáo dục. Và cũng chính vì thế, vấn đề không nằm ở tầm bộ trưởng Bộ Giáo dục - đào tạo.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận