Công nghiệp phần mềm VN - mười năm thăng trầm

(THEO SÁCH TRẮNG CNTT 2010) 10/04/2011 22:04 GMT+7

TTCT - 10 năm qua cũng là 10 năm của những thăng trầm mà doanh nghiệp phần mềm Việt Nam gánh chịu: khởi nghiệp vất vả, luôn biến động về quy mô nhân sự, khó khăn về chuyển đổi thị trường, định hình sản phẩm dịch vụ và vẫn chưa có được những phần mềm ứng dụng ngành đặc thù.

Read this on Tuoitrenews.vn

Phóng to
Nhóm thiết kế phần mềm của Công ty TMA ở công viên phần mềm Quang Trung (TP.HCM) - Ảnh: T.T.D.

Khởi động với một loạt chủ trương và chính sách hỗ trợ, ít ai ngờ ngành phần mềm VN lại vẫn chủ yếu “ra biển lớn” được nhờ những thương vụ mua bán - sáp nhập và sự xuất hiện của những thương hiệu quốc tế lớn tại VN do nhiều ưu đãi đầu tư hấp dẫn.

Từ góc nhìn M&A

Lĩnh vực gia công phần mềm tại Việt Nam - vốn chịu nhiều biến động của nền công nghệ thông tin (CNTT) toàn cầu - những năm gần đây sôi động với các thương vụ M&A (mua bán - sáp nhập). Thông thường, đây là bước khởi đầu của các tập đoàn CNTT lớn khi cần mở trung tâm mới ở những quốc gia có tiềm năng về nguồn nhân lực để phục vụ chuỗi dịch vụ toàn cầu.

Năm 2009, Tập đoàn Mỹ CSC đã thâu tóm FCG, một tập đoàn khác của Mỹ có đội ngũ khoảng 700 kỹ sư và 15 năm hoạt động tại Việt Nam. (Trước đó FCG đã mua PSV - một công ty mà nòng cốt là một nhóm sinh viên ĐH Bách khoa TP.HCM, sau được một nhà đầu tư Mỹ rót vốn). Tập đoàn CNTT lớn nhất châu Âu CapGemini mua lại công ty 100% vốn của Pháp - IACP. Harvey Nash của Anh thâu tóm SilkRoad Systems, NEC Solutions mua Công ty Sáng Tạo, InfoNam của Ấn Độ mua PSD (Mỹ)... Hàng loạt tên tuổi khác như IBM, Aricent, các hãng thiết kế vi mạch như Renesas, Applied Micro, Texas Instrument, Synopsys... mở trung tâm gia công tại Việt Nam.

Mới nhất là Tập đoàn HP mua đội ngũ nhân sự của một công ty nước ngoài khác đã có kinh nghiệm tại Việt Nam. Nhờ thương vụ này, HP đã nhanh chóng thiết lập được đội ngũ lõi (core team) đến 50 người cho kế hoạch đạt đến 4.000 nhân viên vào cuối năm 2014.

Chính nhờ các vụ M&A và thương hiệu của các tập đoàn lớn “đổ bộ” thời gian qua, thế giới mới nhìn về Việt Nam như một nơi có khả năng phát triển các dịch vụ CNTT. Cho dù nhiều hãng chỉ lập ra trung tâm mới với quy mô nhỏ như bước chuẩn bị đón đầu thị trường khi cần thiết và mục đích các vụ M&A là nhanh chóng sở hữu đội ngũ có kinh nghiệm và kỹ năng, thay vì hợp tác dự án.

Đó chính là nỗi lo ngại đang dấy lên của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, ngoài FPT có hơn 3.000 nhân sự cho mảng gia công, chỉ một vài doanh nghiệp phần mềm có đội ngũ nhân lực vượt qua 1.000 người. Quy mô nhân lực nhỏ là cản trở lớn nhất hiện nay đối với doanh nghiệp gia công, vì như vậy khó mà được các dự án lớn và quan trọng để mắt tới.

Đó là lý do tại sao thị trường gia công thế giới hằng năm rất lớn nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn đành phận đứng ngoài nhìn vào, không thâm nhập được, trong khi các quốc gia khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines... đang đưa ra những chính sách hấp dẫn cho gia công.

Từ gia công đến đi tìm giá trị riêng

Ở giai đoạn khởi động, các doanh nghiệp Việt Nam còn non nớt phải vịn vào gia công như một bước tham gia bộ máy toàn cầu để có nguồn nhân lực tốt hơn và tìm kiếm kinh nghiệm đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Nhưng đứa trẻ 10 năm đến lúc cũng phải lớn, ấp ủ tìm giá trị riêng là giấc mơ không chỉ của riêng một doanh nghiệp.

FPT Software đang nhắm đến một số giải pháp riêng như hệ thống định vị cho ngành giao thông vận tải, Logigear đã thương mại hóa thành công Test Architect (một công nghệ tự động hóa kiểm thử phần mềm), TMA Solutions phát triển các dịch vụ di động từ kinh nghiệm nhiều năm gia công trong mảng viễn thông... Nhiều doanh nghiệp khác cũng tìm về thị trường nội địa như CSC, GCS qua việc tăng cường mảng tư vấn quản trị kinh doanh.

Ông Nguyễn Hữu Lệ, chủ tịch TMA, cho biết công ty chủ yếu vẫn hướng đến thị trường nước ngoài với mảng gia công nhưng dần dần đầu tư cho mảng R&D. Năm 2010, trung tâm giải pháp di động của TMA được thành lập với khoảng 50 người, nay đã tăng lên gấp đôi. Khi đầu tư cho trung tâm R&D này, TMA không đưa ra mục tiêu doanh thu trong vài năm đầu, nhưng sau một năm hoạt động đã đủ khả năng trả lương cho nhân viên.

Theo ông Lệ, điều này cho thấy thị trường vẫn có nhiều cơ hội nhưng nhiều doanh nghiệp chưa biết nắm bắt. “Đầu tư như vậy buộc phải mạo hiểm. Chúng tôi chọn cách liên kết với đối tác nước ngoài để chia sẻ rủi ro vì nếu tự làm, doanh nghiệp Việt Nam vừa không đủ năng lực tài chính dài hạn, vừa rất kém khi tiếp thị sản phẩm ra thị trường thế giới”.

Theo ông Ngô Văn Toàn - phó tổng giám đốc GCS, không phải cứ thành công ở lĩnh vực gia công (cho nước ngoài) là có thể tiếp cận tốt thị trường trong nước hoặc ngược lại. Những nỗ lực trên của từng doanh nghiệp vẫn chỉ là những đốm sáng nhỏ lẻ trong bức tranh toàn cảnh của ngành công nghiệp phần mềm hiện nay.

Lận đận phần mềm trong nước

Thị trường ghi nhận nỗ lực của một số doanh nghiệp phát triển sản phẩm riêng và đã tìm được chỗ đứng nhất định ở thị trường trong nước như Lạc Việt, Diginet, Fast, Misa... Nhiều năm qua, mảng doanh nghiệp này chịu sự sàng lọc lớn trên thị trường và gặp vô vàn khó khăn. Nhiều phần mềm “made in VN” đã bị xóa sổ vì nhiều lý do. Những sản phẩm phát triển được tựu trung là những chương trình đáp ứng cho khối doanh nghiệp nhỏ, chưa có được những sản phẩm quy mô lớn và chuyên ngành.

“Phần mềm trong nước chỉ có thể phát triển khi có sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề bản quyền, chính sách quản lý và chế tài xử lý vi phạm” - ông Lê Hải Bình, chủ tịch HĐQT Công ty Mắt Bão, đánh giá. Cả một thập niên, nỗi ám ảnh của nạn vi phạm bản quyền - dù đã được kêu ca, lên án ra rả - vẫn chưa phút nào nguôi. Cộng thêm những chật vật từ chính sách thuế, môi trường ứng dụng khập khiễng, những doanh nghiệp phần mềm nhỏ bé, ra đời muộn, năng lực tài chính kém lại càng chật vật hơn khi cả công nghệ lẫn thị trường thay đổi từng ngày.

Điều này cũng giải thích vì sao các sản phẩm phần mềm trong nước chưa đáp ứng chuẩn mực quản lý quốc tế, thiếu tính ổn định. Các hệ thống ứng dụng CNTT lớn vẫn đang là đất của các sản phẩm nước ngoài.

Khi phần mềm đóng gói không mấy thành công, rất nhiều doanh nghiệp lại tiếp tục thất bại với kỳ vọng phát triển các hệ thống quản lý tổng thể doanh nghiệp (ERP) trong giai đoạn đầu, kể cả những ông lớn như FPT. Song kinh nghiệm xương máu ấy lại đang giúp họ trong việc tái cấu trúc để đi vào lĩnh vực riêng như phần mềm cho ngành y tế, phần mềm SmartBank (đang ứng dụng tại 50% công ty chứng khoán trong nước), hệ thống quản lý thuế thu nhập cá nhân...

CNTT không đơn thuần là công nghệ mà còn là tích hợp quy trình quản trị trong các ngành công nghiệp nhiều năm. Vì vậy, “mua phần mềm suy cho cùng là mua quy trình quản trị hiện đại, mà phần mềm Việt Nam chưa thể đạt đến cấp độ này. Chúng ta cần có thời gian để có kinh nghiệm chuyên sâu mới hi vọng ghi tên cho các giải pháp quy mô lớn và đặc thù” - ông Phạm Anh Chiến, tổng giám đốc Công ty phát triển phần mềm FPT (FIS), thừa nhận.

Quy mô ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam hiện nay

- Có hơn 1.000 doanh nghiệp phần mềm, tăng gần sáu lần so với năm 2000, với tổng số lao động ngành công nghiệp phần mềm là 64.000 người (phân nửa là ở TP.HCM). Một số doanh nghiệp có trên 1.000 lao động.

- Tổng doanh thu ngành công nghiệp phần mềm năm 2009 là 850 triệu USD (tăng trưởng trung bình 25-35%/năm).

- Cả nước hiện có bảy khu công nghiệp phần mềm tập trung đang hoạt động với tổng quỹ đất gần 738.000m2, trong đó có 499 doanh nghiệp CNTT (279 doanh nghiệp trong nước và 220 doanh nghiệp nước ngoài).

Còn lại 7 khu công nghiệp phần mềm

Sau khi Nhà nước “bật đèn xanh” khuyến khích phát triển khu phần mềm tập trung, năm 2000 sự ra đời của trung tâm công nghệ phần mềm TP.HCM (SSP) và công viên phần mềm Quang Trung (QTSC) tại TP.HCM mở đầu cho sự phát triển ồ ạt các khu phần mềm tập trung trên cả nước. Năm 2001, một loạt khu phần mềm tập trung ra đời ở Thừa Thiên - Huế, Cần Thơ, Bắc Ninh, Hải Phòng... trung bình mỗi năm có hơn một khu phần mềm tập trung được thành lập.

Nay cả nước còn bảy khu phần mềm tập trung là SSP, QTSC, eTown, khu công nghiệp phần mềm ĐHQG TP.HCM, Trung tâm giao dịch CNTT Hà Nội, Trung tâm phát triển hạ tầng CNTT Đà Nẵng, CSP.

Dự án có quy mô lớn là khu CNTT Bắc Ninh do Công ty cổ phần Công nghệ viễn thông Sài Gòn (SaigonTel) khởi công từ năm 2004 trên diện tích 50ha với tổng vốn đầu tư 297 tỉ đồng, đến nay không có hoạt động về phần mềm. Một dự án khác cũng do SaigonTel làm chủ đầu tư là công viên phần mềm Thủ Thiêm tại TP.HCM với diện tích 15,9ha, khởi công từ năm 2008 nhưng sau đó nằm im. Công viên tri thức Việt - Nhật cũng tại Thủ Thiêm đang triển khai xây dựng sau khi đã trễ hạn nhiều lần nhưng tiến độ rất chậm.

__________

“Các chính sách về CNTT khi trình lên Chính phủ và được phê duyệt thường là một bức tranh đẹp, khá thuyết phục và có vẻ đồng bộ từ mục tiêu đến các giải pháp thực hiện. Nhưng cuối kỳ quy hoạch mới thấy nhiều chỉ tiêu không đạt...”.

Phóng to
Bà Nguyễn Thị Nga từng chứng kiến lễ khởi công công viên phần mềm Thủ Thiêm (phường An Lợi Đông, Q.2, TP.HCM) từ năm 2008. Đến nay nơi đây vẫn là khu đất trống - Ảnh: T.T.D.

Hơn mười năm trước, chỉ thị 58/BCT và nghị quyết 07 đã thể hiện rõ ràng ý chí của Nhà nước về phát triển ngành công nghiệp phần mềm và ứng dụng CNTT.

Chưa thật sự lớn

Ngay thời điểm đó chúng ta đã đưa ra các kế hoạch phát triển cụ thể và hệ thống văn bản pháp luật khá đầy đủ. Nhận thức của xã hội vì thế đã được nâng cao, các doanh nghiệp thấy được cơ hội và người tiêu dùng cũng thấy lợi ích của mình. Nhờ vậy, 10 năm sau VN đã hình thành được một ngành công nghiệp phần mềm ở mức trung bình trên thế giới.

Nhưng dù vậy, đến nay chúng ta vẫn chưa có doanh nghiệp phần mềm đủ tầm để phát triển các sản phẩm phần mềm ở quy mô lớn và chuyên ngành (như giải pháp cho ngành tài chính, ngân hàng, thuế...), cũng chưa có sản phẩm có thương hiệu xuất khẩu. Các khu công nghiệp phần mềm tập trung vẫn còn nhỏ và chưa thật sự hấp dẫn nhiều nhà đầu tư. Đề án Chính phủ về triển khai phần mềm nguồn mở xác định đây là hướng đi đúng để tiết kiệm chi phí, tăng khả năng sáng tạo và tính chủ động trong lĩnh vực phần mềm của doanh nghiệp trong nước nay vẫn rất chậm và hạn chế.

Lâu nay, chúng ta vẫn không thôi tranh luận nên ưu tiên làm phần mềm cho thị trường trong nước hay gia công cho nước ngoài. Nhưng việc ưu tiên cho thị trường nào phụ thuộc vào lợi thế so sánh của từng quốc gia, từng doanh nghiệp, sản phẩm và dịch vụ trong từng giai đoạn. Trung Quốc có ngành công nghiệp điện tử thời gian dài chủ yếu phục vụ thị trường trong nước với giá rẻ, nay đủ mạnh để vươn ra nước ngoài. Ấn Độ có nền giáo dục tốt và lợi thế tiếng Anh nên đáp ứng được yêu cầu về lao động CNTT cho các quốc gia đang muốn chuyển dịch sang thị trường có lao động rẻ.

Khát vọng và thực tế

Đề án “Đưa VN trở thành quốc gia mạnh về CNTT” một lần nữa khẳng định quyết tâm trong việc phát triển ngành. Nhưng những kinh nghiệm trong 10 năm qua đang dẫn đến những lo ngại nhất định về khả năng đạt được những mục tiêu mà đề án đề ra.

Trước hết là về nhận thức. Tôi tâm đắc với một số đề xuất nên đổi chữ “về” trong đề án thành chữ “bằng”, tức “Đưa VN thành một nước mạnh bằng CNTT”. Nói lên ý này không phải để thay đổi tên đề án, bởi có thể lý luận rằng mạnh về CNTT cũng có thể đưa đất nước mạnh lên. Nhưng “bằng CNTT” sẽ cho thấy vai trò của CNTT lớn mạnh và thiết yếu như thế nào trong sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế, xã hội, văn hóa hay quốc phòng.

Như vậy thể hiện được nhận thức CNTT sẽ làm đất nước mạnh lên và có tầm khác. Và nếu nhận thức đến mức độ cao như vậy thì các cấp lãnh đạo sẽ thấy đây là việc của mình và xông xáo lao vào làm chứ không phải chỉ là ủng hộ.

Đề án nêu CNTT - viễn thông là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp cho nền kinh tế tương đương 8% GDP. Đây là con số quan trọng nhưng quan trọng hơn là những ảnh hưởng của CNTT với sự phát triển của các ngành kinh tế khác và việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cấp, các ngành. Đây là hai vế của ngành CNTT: CNTT là một ngành kinh tế kỹ thuật đóng góp lớn cho nền kinh tế và là ngành động lực cho sự phát triển. Do nhận thức chưa đầy đủ về CNTT nên nhiều khi chúng ta xem nó như một ngành kinh tế vật chất mà không thấy đặc điểm đó là ngành công nghiệp sáng tạo.

Các chính sách về CNTT cũng như các ngành khác khi trình lên Chính phủ và được phê duyệt thường là một bức tranh đẹp, khá thuyết phục và có vẻ đồng bộ từ mục tiêu đến các giải pháp thực hiện. Nhưng cuối kỳ quy hoạch mới thấy nhiều chỉ tiêu không đạt, không phải do chính sách mà do nhận thức, cách thức triển khai và thực hiện. Mười năm thực hiện chỉ thị 58, nghị quyết 07 và các văn bản khác cũng chỉ ra rằng nhiều lúc chúng ta đã nhận thức không tốt và thiếu quyết tâm, từ trung ương đến địa phương.

Phát triển công nghiệp phần mềm vẫn có thể xem là một lợi thế so sánh của VN trên thị trường lao động thế giới, nhờ nguồn dân số trẻ rất lớn. Nếu được đào tạo và sử dụng tốt, tôi tin một kỹ sư phần mềm VN không thua kém gì kỹ sư các nước. Trên điều kiện mạng viễn thông phát triển, toàn cầu hóa, giá trị gia tăng của nhân lực ngành công nghiệp phần mềm lại càng lớn. Tuy nhiên từ tiềm năng có thể biến thành khả năng hay không còn là một câu hỏi.

Đòi hỏi lớn nhất là đột phá trong đào tạo để thực hiện có được 1 triệu kỹ sư CNTT vào năm 2020. Cần nhất là cải thiện chất lượng nguồn nhân lực thì bức tranh ngành công nghiệp phần mềm mới có thể khác, mới đủ nguồn lực nâng tỉ lệ xuất khẩu lên 50% (tức 10 tỉ USD) và VN mới trở thành một nước mạnh về CNTT trên thế giới. Đây là một thách thức rất lớn.

“VN vẫn chưa có doanh nghiệp CNTT mạnh”

Chỉ thị 58/BCT là thông điệp rõ ràng và bao quát về ngành CNTT, vấn đề là quá trình thực thi chưa biến các chủ trương tốt thành hành động cụ thể. Việc thực thi không tốt bởi có nhiều bộ máy không thực lực, thiếu sự quan tâm của chính quyền địa phương, làm lãng phí cơ hội và mất đi niềm tin của xã hội. Đến nay VN vẫn chưa có doanh nghiệp mạnh hay ngành CNTT mạnh.

Muốn trở thành một quốc gia mạnh về CNTT thì phải có những doanh nghiệp mạnh, mà điều này phụ thuộc vào chương trình của Chính phủ chứ không chỉ đơn lẻ của doanh nghiệp. Chúng ta cũng chưa có sản phẩm mạnh, thương hiệu nổi tiếng vì nguồn lực yếu. Nguồn nhân lực vốn còn yếu lại đang mất đi sức hấp dẫn. Đó là chưa kể ngành CNTT còn thiếu trầm trọng đội ngũ chuyên gia am hiểu các lĩnh vực chuyên ngành ngoài CNTT...

“Chúng ta chỉ đặt mục tiêu mà không xác định mục tiêu”

Chúng tôi vẫn cho rằng ngành phần mềm Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Các doanh nghiệp đã nỗ lực rất nhiều, nhất là qua các đợt khủng hoảng dot-com 2000, dịch SARS 2003 và gần đây nhất là khủng hoảng tài chính 2008-2009, trong một môi trường mà các chính sách và thể chế vẫn còn đang hoàn thiện.

Nếu so với các quốc gia khác, về chiến lược, định hướng và mục tiêu, chúng ta đều có rất sớm, được khẳng định nhiều lần ở nhiều cấp. Tuy nhiên, kết quả chưa như mong đợi. Thứ nhất là mục tiêu và chất lượng chính sách. Dù đã đưa ra nhiều mục tiêu nhưng chưa xác định mục tiêu cơ bản, mục tiêu phụ thuộc hay mục tiêu nào phù hợp với đặc thù của mình. Thứ hai là nhiều chính sách định hướng tốt, nhưng thực thi và giám sát kém, đặc biệt là tính hiệu quả và phù hợp với thực tiễn. Thứ ba là môi trường để kích thích và phát triển CNTT.

Ngành CNTT của một quốc gia không thể phát triển đơn lẻ mà cốt yếu phải dựa vào nền tảng động lực là nhận thức và ứng dụng rộng rãi CNTT trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tôi nghĩ ngành CNTT khó đột phá nếu như chính sách phát triển mới không giải quyết được các vấn đề này.

“Nhiều khó khăn trong hoạch định chính sách”

Việc hoạch định chính sách cho sự phát triển của ngành CNTT có nhiều khó khăn, vì đây là ngành có nhiều yếu tố đặc thù, công nghệ thay đổi nhanh chóng, đầu tư cho công tác này còn chưa tương xứng với yêu cầu thực tế. Để khắc phục những bất cập, tôi nghĩ cần đảm bảo nhất quán trong việc xây dựng và thực thi chính sách để các cơ chế, chính sách thật sự đi vào cuộc sống, hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp.

Chúng ta luôn có cơ hội mới để rút ngắn khoảng cách với bên ngoài, tuy nhiên việc biến cơ hội thành lợi thế lại phụ thuộc nhiều vào khả năng nắm bắt của mỗi doanh nghiệp và cộng đồng CNTT.

Bộ Thông tin - truyền thông đang thu hút sự tham gia rộng rãi của các hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp, chuyên gia và cộng đồng xã hội vào quá trình xây dựng các văn bản, cơ chế, chính sách phát triển ngành. Bộ đã trình Chính phủ dự thảo quy hoạch phát triển các khu CNTT tập trung đến năm 2020 và nghị định quy định về khu CNTT tập trung.

Tôi tin rằng các văn bản này được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần mềm nói riêng, của cả ngành CNTT nói chung.

Năm 2011 cũng là năm khởi động nhiều chương trình, kế hoạch lớn của Chính phủ như: đề án đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT - truyền thông, chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước... Thị trường cho các doanh nghiệp, cả thị trường trong nước và quốc tế, nhờ đó sẽ được mở rộng.

Bộ Thông tin - truyền thông kỳ vọng ngành CNTT Việt Nam sẽ duy trì tốc độ phát triển cao như trong giai đoạn vừa qua. Nếu nắm bắt tốt hơn cơ hội, chúng ta có thể đạt được mức tăng trưởng cao hơn.

__________

Phóng to
TS Lê Mạnh Hà - Ảnh: T.T.D.
TS LÊ MẠNH HÀ, giám đốc Sở TT-TT TP.HCM, cho rằng ngành CNTT muốn phát triển đột phá cần thổi bùng lại nhiệt huyết của chỉ thị 58/BCT cùng với việc thực thi hiệu quả các đề án mới.

* Có nhiều quyết sách quan trọng bổ trợ mà sau 10 năm ngành CNTT lại trở nên trầm lắng và không có những đột phá, theo ông vì sao?

- Hơn 10 năm trước, chỉ thị 58 ra đời đã tạo nên ngọn lửa nhiệt huyết của cả ngành CNTT lúc đó, tiếp sức cho nhiệt huyết, đam mê của những người làm CNTT. Dù nay có nhiều khác biệt nhưng những quyết sách đó đến giờ vẫn còn giá trị lớn. Rất tiếc sau một thời gian ngắn, việc thực thi chuệch choạc, khiến sự phát triển CNTT không đều. Ngành CNTT vẫn đang phát triển nhưng chưa có bước đột phá, VN vẫn chưa phải là nước mạnh về CNTT. Theo tôi, giờ mà muốn đột phá thì phải thổi lên được ngọn lửa nhiệt tình, tinh thần của chỉ thị 58. Đây là việc làm cần thiết và cấp thiết.

Phát triển ngành quan trọng như phần mềm, suy cho cùng khi lãnh đạo có quyết sách và quyết tâm thì mọi thứ mới có thể chạy. Chúng ta đang quá bận rộn cho những vấn đề như cầu cống, kẹt xe... thử hỏi một năm có bao nhiêu cuộc họp dành cho ngành CNTT? Để ngành tốt hơn thì đòi hỏi vai trò đầu tàu của lãnh đạo để có một chính sách ngành rõ ràng, quyết sách phải thực tế và mạnh, có tính đột phá.

* Ông thấy thành quả nào quan trọng nhất trong 10 năm qua?

- Công viên phần mềm Quang Trung (CVPMQT) là một ví dụ. Nếu chỉ thị 58 không được biến thành hành động thì chúng ta không có CVPMQT ngày nay. Nếu 10 năm trước không có quyết tâm mạnh mẽ thì ngày nay TP.HCM chưa có ngành phần mềm.

Nhưng nhìn chung, đúng là định lượng về doanh thu hay quy mô doanh nghiệp của CVPMQT không lớn. Thành quả quan trọng nhất CVPMQT đạt được là đã xây dựng được thương hiệu, góp phần quảng bá hình ảnh VN ra quốc tế trong lĩnh vực phần mềm.

Có nhiều ý kiến cho rằng nếu để 40ha đất CVPMQT cho kinh doanh bất động sản thì lợi nhuận gấp nhiều lần. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh số tiền thu được có thể cao nhưng sẽ không phát triển được thương hiệu CVPMQT mà nhờ đó người ta biết VN có công nghiệp phần mềm.

* Nhưng nhiều khu phần mềm đã thất bại, nhiều nơi đã “đắp chiếu” từ rất lâu. Ngay cả ở TP.HCM, một số khu nhiều năm qua vẫn chưa khởi động được?

- Công viên tri thức Việt - Nhật và trung tâm phần mềm Thủ Thiêm tại TP.HCM là điển hình về việc triển khai rất lâu nhưng không có kết quả. Có thể thấy quyết tâm của chủ dự án công viên tri thức Việt - Nhật khi họ đóng khoản phạt (chậm triển khai) 2 triệu USD, giải trình cụ thể lý do vì sao triển khai dự án chậm và xin tiếp tục dự án.

Nhưng điều này sẽ là kinh nghiệm quý cho việc xác định mô hình khu phần mềm tập trung nên để Nhà nước làm hay tư nhân làm? Ai thu hút đầu tư tốt hơn? Ai đảm bảo rủi ro đất đai và hạ tầng viễn thông? Doanh nghiệp tư nhân có thể làm khu công nghiệp rất tốt nhưng ngành phần mềm lại là lĩnh vực đầu tư có độ mạo hiểm cao, chi phí lớn, cần sự ổn định về nguồn lực và đòi hỏi phát triển “xanh”. Liệu doanh nghiệp tư nhân có đủ lực hay không nếu yêu cầu lợi nhuận là trên hết?

Cho đến nay, mô hình Nhà nước đầu tư vẫn có vẻ hợp lý hơn cả. Nhưng tiếc là các khu phần mềm khác của Nhà nước ở các tỉnh bạn cũng không phải là thành công.

* Sắp tới, TP.HCM có bước đi mới nào cho ngành phần mềm không, thưa ông?

- Nhiều việc chúng ta vẫn làm chưa được như mong muốn và cần tính toán thêm. Làm tốt đến đâu cũng cần có những đánh giá cụ thể và rút kinh nghiệm cho giai đoạn tới. Thành phố đã có ý định xây dựng CVPMQT thứ hai. Chúng tôi cũng có ý tưởng xây dựng chuỗi CVPMQT, nghĩa là sẽ có các công viên phần mềm ở các tỉnh khác mang tên Quang Trung. Kết quả hoạt động của các công viên này sẽ đóng góp quan trọng vào thành công của đề án xây dựng VN sớm trở thành nước mạnh về CNTT.

Đến nay các khu phần mềm tập trung vẫn chưa thực hiện được vai trò đầu tàu xét ở nhiều mặt. Hầu hết các khu này mới dừng ở vai trò đơn thuần là nhà cung cấp văn phòng và các dịch vụ liên quan, chưa đủ năng lực đồng hành với các doanh nghiệp thành viên như hỗ trợ phát triển kinh doanh và nhân lực.

Theo tôi, các khu này không chỉ là nơi có năng lực sản xuất hoặc nghiên cứu/phát triển hàng đầu mà còn phải là động lực chính để kéo toàn bộ ngành công nghiệp phần mềm phát triển, phải là tác nhân quan trọng để định hướng và liên kết các doanh nghiệp cùng cạnh tranh hiệu quả ở quy mô lớn khi ra thị trường toàn cầu.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận